Phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đen - trắng và nhãn hiệu màu ở nước ngoài và Việt Nam
Theo quy định về bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới, một nhãn hiệu có thể xin đăng ký bảo hộ ở dạng đen-trắng, dạng màu hoặc cả đen-trắng lẫn màu sắc.
Tuy nhiên, các
câu hỏi thường được đặt ra là: i) Phạm vi bảo hộ của một nhãn hiệu đen-trắng
hoặc một nhãn hiệu trong dạng màu sắc đạt đến mức độ nào, nhãn hiệu nào được
bảo hộ mạnh hơn? ii) Mối quan hệ như thế nào giữa một nhãn hiệu đen-trắng với
cùng nhãn hiệu đó nhưng được thể hiện ở dạng màu sắc?
Các câu hỏi trên
không dễ trả lời một cách chung nhất bởi lẽ không phải luật pháp sở hữu trí tuệ
của quốc gia nào cũng có quy định cụ thể về phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu
đen-trắng và nhãn hiệu màu, thêm nữa không phải các quy định liên quan đến vấn
đề trên cũng giống nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Tuy vậy, thông qua quy
định luật pháp và thực tiễn áp dụng có thể phân ra hai cách tiếp cận chính của
các nước trong việc bảo hộ nhãn hiệu đen-trắng và nhãn hiệu màu.
Cách tiếp cận thứ
nhất: Phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu phụ thuôc chặt chẽ vào mẫu nhãn hiệu đã đăng
ký, nhãn hiệu đăng ký thế nào sẽ được bảo hộ đúng như vậy. Do đó, chủ một nhãn
hiệu đen-trắng không thể tự ý sử dụng nhãn hiệu đó dưới các dạng màu tùy ý, hay
nói một cách khác là việc sử dụng như vậy không thuộc quyền được bảo hộ của chủ
nhãn hiệu.
Cách tiếp cận thứ
hai linh hoạt hơn: Một nhãn hiệu được đăng ký ở dạng đen-trắng thì có nghĩa nội
dung (hình/chữ) của nó đã đươc bảo hộ,vì vậy nhãn hiệu có thể được sử dụng ở
các màu khác với đen-trắng miễn là các hình/chữ của nó vẫn được giữ nguyên còn
màu sắc sử dụng không phải là thành phần phân biệt của nhãn hiệu. Nếu màu sắc
lại là thành phần tự thân đóng góp vào tính phân biệt của nhãn hiệu thì nhất
thiết nhãn hiệu phải được đăng ký ở dạng màu sắc để đạt được sự bảo hộ hiệu quả
nhất.
Vì vậy, liên quan
đến lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất có thể thấy: Một nhãn hiệu được đăng ký ở
dạng màu sắc nói chung được bảo hộ mạnh hơn so với cùng nhãn hiệu được bảo hộ
dưới dạng đen-trắng. Bởi ngoài việc được bảo hộ về mặt nội dung (hình/chữ) như
một nhãn hiệu đen-trắng, nhãn hiệu màu sắc còn được bảo hộ cả màu hoặc kết hợp
màu, giúp bảo vệ nhãn hiệu chống lại cả các hành vi xâm phạm bằng cách sử dụng
kết hợp màu sắc tương tự gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, khi đã đăng ký dạng màu sắc
chủ nhãn hiệu lại bị hạn chế trong việc sử dụng, nghĩa là chỉ được sử dụng nhãn
hiệu đúng như mẫu đã đăng ký. Trong khi đó, nhãn hiệu đen-trắng lại có ưu thế
giúp chủ nhãn hiệu có thể linh hoạt sử dụng nhãn hiệu một cách rộng hơn, theo
các phương án màu khác nhau phù hợp với các điều kiện thực tế. Do đó, nếu có đủ
điều kiện, chủ nhãn hiệu nên tiến hành đăng ký nhãn hiệu cả trong dạng đen
trắng lẫn màu sắc để đạt được sự bảo hộ hiệu quả nhất.
Về câu hỏi thứ
hai, các vấn
đề chính thường được đặt ra về sự liên quan về pháp lý giữa một nhãn hiệu
đen-trắng và cùng nhãn hiệu đó ở dạng màu sắc là:
(i) Quyền ưu
tiên:
Liệu một nhãn
hiệu đen-trắng có trước có thể làm cơ sở xin quyền ưu tiên cho cùng nhãn hiệu
đó được xin đăng ký trong dạng màu sắc?
(ii) Sử dụng
làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký:
Liệu một nhãn
hiệu đen-trắng có trước có thể lấy làm cơ sở để từ chối một nhãn hiệu trùng với
nhãn hiệu đó nhưng trong dạng màu?
(iii) Làm
chứng cứ cho việc sử dụng:
Liệu việc sử dụng
một phiên bản màu của một nhãn hiệu được đăng ký trong dạng đen-trắng có được
chấp nhận là chứng cứ sử dụng của nhãn hiệu đen - trắng đó hay không?
Ba vấn đề trên
không có một lời đáp thống nhất cho mọi quốc gia do có sự khác nhau trong luật
pháp của từng quốc gia thậm chí cả các quốc gia phát triển hoặc trong khối liên
minh chặt chẽ như EU. Do đó, sự hài hòa trong luật pháp quốc tế về phạm vi bảo
hộ của nhãn hiệu đen-trắng và nhãn hiệu màu, ít nhất cho từng nhóm nước hay cho
từng khu vực, là điều cần thiết. Chúng ta hãy xem cách giải quyết của của EU
liên quan đến vấn đề trên như thế nào.
Ngày 15/04/2014
các nước EU đã ban hành “Thông cáo chung về việc thực hành chung phạm vi bảo hộ
của nhãn hiệu đen-trắng” (The Common Communication on the common practice of
the scope of protection of black& white marks) đây là kết quả của sự hợp
tác giữa các cơ quan sở hữu trí tuệ trong EU nhằm hài hòa hóa thực tiễn bảo hộ
nhãn hiệu đen-trắng trong phạm vi các quốc gia của Liên minh này.
Thông cáo chứa
quy định chung về cách áp dụng luật cho ba vấn đề được nêu trên liên quan đến
bảo hộ nhãn hiệu đen-trắng:
• Về quyền ưu
tiên
Theo quy định một
nhãn hiệu muốn được hưởng quyền ưu tiên phải dựa trên cùng nhãn hiệu đã được
nộp đơn đăng ký trước đó nên mọi sự khác biệt giữa các nhãn hiệu liên quan sẽ
vấp phải sự phản đối. Do đó, một nhãn hiệu đã được đăng ký ở dạng đen-trắng sẽ
không được coi là cơ sở để xin quyền ưu tiên cho cùng nhãn hiệu xin đăng ký ở
dạng màu. Tuy nhiên, nếu sự khác biệt về màu nhỏ đến mức người tiêu dùng trung
bình không nhận biết được thì các nhãn hiệu đó có thể coi là trùng nhau để có
thể xin hưởng quyền ưu tiên.
• Về khả năng
dùng làm cơ sở để từ chối đăng ký nhãn hiệu:
Sự khác biệt giữa
nhãn hiệu đen-trắng và màu, tuy có cùng hình dạng và đường nét, nhưng nói chung
người tiêu dùng trung bình đều có thể nhận biết được nên không thể coi là trùng
nhau để làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký nhãn hiệu. Chỉ trong trường hợp
ngoại lệ, khi sự khác biệt không đáng kể và người tiêu dùng trung bình không dễ
nhận biết được thì các nhãn hiệu đó mới được coi là trùng nhau.
• Về khả năng
dùng làm chứng cứ về sử dụng nhãn hiệu:
Việc sử dụng
phiên bản màu của một nhãn hiệu đen-trắng đã đăng ký có được coi là nhãn hiệu
đen-trắng đó đã được sử dụng hay không sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Sự sử dụng màu cho một nhãn hiệu đen-trắng đã đăng ký sẽ không bị coi là làm
thay đổi nhãn hiệu đó nếu: các thành phần chữ/hình vẫn được giữ nguyên và là
các thành phần chính; tương phản tối sáng được giữ nguyên; màu sắc không mang
tính phân biệt tự thân và không phải là một đặc điểm phân biệt của nhãn hiệu.
Nhận xét:
Các quy định theo
Thông cáo trên bước đầu thống nhất được cách tiếp cận liên quan đến phạm vi bảo
hộ của nhãn hiệu đen-trắng trong phạm vi của các nước châu Âu. Tuy nhiên, các
quy định này mới chỉ giải quyết được một vế của vấn đề, tức là chỉ mới quy định
ảnh hưởng của nhãn hiệu đen-trắng đến các phương án màu của nó. Còn chiều ngược
lại: một nhãn hiệu màu có thể coi là trùng lặp để tạo quyền ưu tiên cho nhãn
hiệu đen-trắng hay có thể làm cơ sở để từ chối nhãn hiệu đen-trắng hay không
thì chưa được đề cập tới.
Sự hài hòa trên
không được trọn vẹn vì có đến 6 quốc gia trong EU không tham gia Dự án này. Ý,
Pháp, Phần Lan không tham gia vào Dự án và Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển rút lui
không áp dụng do có khác biệt hoặc hạn chế bởi luật pháp quốc gia.
Thực tiễn của
Việt Nam và đề xuất cho thời gian tới
Quy định về bảo
hộ nhãn hiệu ở Việt Nam cũng như các văn bản hướng dẫn cũng không có các quy
định cụ thể về phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đen- trắng và nhãn hiệu màu, cũng
như tương quan giữa một nhãn hiệu đen-trắng và chính nhãn hiệu đó được thể hiện
trong dạng màu.
Tuy nhiên, thực
tiễn bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam cho phép một nhãn hiệu đăng ký ở dạng
đen-trắng có thể được sử dụng ở các dạng màu sắc khác nhau, miễn là vẫn giữ
nguyên được các nội dung chữ/hình của nhãn hiệu và không xâm phạm quyền đối với
một nhãn hiệu đen-trắng hoặc màu của người khác đã được đăng ký.
Theo diễn giải
của Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam và trong thực tế thì việc áp dụng quy định
Luật pháp của Việt Nam liên quan đến phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đen - trắng
có nhiều điểm tương đồng với quy định trong Thông cáo chung của EU ngày
25/04/2014 nêu trên. Tuy vậy, trong Luật Sở hữu trí tuệ cũng như các văn ban
dưới luật chưa có những quy định cụ thể trong việc xác định phạm vi bảo hộ cũng
như quyền sử dụng liên quan đến nhãn hiệu đen-trắng và nhãn hiệu màu. Điều đó
gây khó khăn cho các chủ thể quyền của nhãn hiệu cũng như những bên liên quan
trong việc áp dụng luật.
Do đó, trong
nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn kèm
theo trong thời gian tới, cần thiết phải đưa vào những quy định cụ thể về phạm
vi bảo hộ của nhãn hiệu đen-trắng và nhãn hiệu màu theo cách tiếp cận linh hoạt
như đã nêu trên. Ngoài ra, Thông cáo chung của EU cũng sẽ là một tài liệu tham
khảo tốt để phục vụ cho mục đích nêu trên./.