Nghiên cứu nhân nhanh cây gừng đá quí hiếm Bắc Kạn bằng kỹ thuật nuôi cấy in vitro
Gừng đá là loài cây quý hiếm của Bắc Kạn, mọc cheo leo vách đá, có giá trị kinh tế cao được coi như cây gia vị và dược liệu quý. Gừng đá Bắc Kạn đã được đồng bào dân tộc (Tày, Nùng, Dao...) trồng từ lâu đời và chủ yếu phân bố tại các huyện Na Ri, Ngân Sơn, Ba Bể,... Gừng đá trồng trên các nương rẫy, rừng núi đất đá xen kẽ. Tuy nhiên, việc khai thác ồ ạt ngoài tự nhiên, trồng manh mún đã khiến giống gừng này đứng trước nguy cơ bị thoái hóa.
Nghiên
cứu nhân nhanh cây gừng bằng nuôi cấy mô ở Việt Nam mới đựơc nghiên cứu ở qui
mô thí nghiệm, chưa trở thành hàng hoá và chưa được báo cáo đầy đủ. Hơn nữa, những
giống gừng địa phương ngày nay có nhiều nguy cơ bị thoái hoá giống hoặc bị mẫn
cảm với một số loại sâu bệnh làm giảm năng suất và chất lượng.
Nhóm
tác giả từ Viện Di truyền Nông nghiệp và Sở Khoa học Công nghệ Bắc Kạn đồng thực
hiện đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu nhân
nhanh cây gừng đá quí hiếm Bắc Kạn bằng kỹ thuật nuôi cấy in vitro” nhằm chọn
lọc, đánh giá, lưu giữ, bảo tồn và nhân nhanh, đưa ra nguồn giống gừng có tiềm
năng về năng suất, chất lượng tại địa phương.
Bài
báo đề cập hướng nhân nhanh giống gừng đá bằng nuôi cấy mô để mở ra hướng bảo tồn
và phát triển kinh tế từ giống cây quý này. Nghiên cứu kỹ thuật nhân nhanh cây
gừng đá đã mô tả các bước chi tiết từ vào mẫu đến ra cây. Mẫu chồi ban đầu được
khử trùng vói H2O2 20% trong thời gian 20 phút. Môi trường
thích hợp cho việc nhân chồi là môi trường MS bổ sung 2 tổ hợp chất kích thích
sinh trưởng: tổ hợp 0,1 mg/1 α-NAA và 3,5 mg/1 BAP; tổ hợp 0,1 mg/1 α-NAA và 4
mg/1 kinetin. Hệ số nhân chồi trên các môi trường này trong bình lần lượt là
3,63 - 5,03 lần. Môi trường ra rễ thích hợp là MS bổ sung 0,6 mg/1 α-NAA và môi
trường MS bổ sung 0,6 mg/l IAA, chồi gừng ra rễ đạt 100% với chiều dài rễ trung
bình là 2,61 - 4,3 và số rễ trung bình là 4,59 - 5,61 rễ/chồi. Giá thể ra cây
theo tỷ lệ tối ưu là: đất phù sa: trấu hun : xơ dừa (8:1:1), là loại giá thể
đóng bầu thích họp nhất, cây có tỉ lệ sống cao (90,0% và 84,44% sau 15 và 30
ngày), sinh trưởng và phát triển tốt.