Xuất khẩu sản phẩm gỗ: Cơ hội và rào cản
Nhóm hàng sản phẩm gỗ là thế mạnh xuất khẩu (XK) Việt Nam. Song, để tận dụng những cơ hội từ quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, ngành gỗ cần chuyên nghiệp hóa từ khâu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Giá trị
XK đồ gỗ trong năm 2014 đạt 6,23 tỷ USD, dự kiến tăng lên 7 tỷ USD trong năm
2015. Đặc biệt, thị phần đồ gỗ của Việt Nam trên thế giới đạt 2,16%, đã có mặt
trên 100 thị trường. Việt Nam đứng thứ 2 trong danh sách các quốc gia XK đồ gỗ
nhiều nhất khu vực châu Á. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản là 3 thị trường nhập
khẩu (NK) gỗ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 62,33% tổng kim ngạch XK đồ gỗ.
Nhu cầu
gỗ của thế giới đang tăng cao cộng với nhiều FTA đã và đang chuẩn bị được ký
kết sẽ là lợi thế XK cho các doanh nghiệp (DN) gỗ, nhất là khi thuế NK xuống
0%. Nhiều chuyên gia trong ngành gỗ nhận định, con số kim ngạch 10 tỷ USD vào
năm 2020 của ngành gỗ Việt Nam là khả thi.
Ông
Nguyễn Tôn Quyền- Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest)- chia
sẻ, Hàn Quốc là một trong những thị trường NK lớn của ngành gỗ Việt Nam, đặc
biệt là dăm gỗ. Việc Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- Hàn Quốc (VKFTA) được
ký kết, Viforest kỳ vọng đồ gỗ Việt Nam vào Hàn Quốc sẽ có giá rẻ hơn, sức cạnh
tranh nâng cao hơn.
Viện
Nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam (VIRI) dự báo, EU và Bắc
Mỹ sẽ là hai thị trường NK lớn nhất hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có mặt hàng
gỗ của Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai thị trường này đang ngày càng thắt chặt hơn
các quy định về tiêu chuẩn NK đối với hàng thủ công mỹ nghệ đến từ các nước
đang phát triển như Việt Nam. Chẳng hạn, để đồ gỗ Việt Nam vào được thị trường
EU khó tính, các DN buộc phải đáp ứng các điều kiện của Luật Hóa chất Reach với
những phương pháp đánh giá độ nguy hại của các chất, được áp dụng tại tất cả 27
nước thuộc EU. Bên cạnh đó, các DN buộc phải dán nhãn FSC (Hội đồng quản lý
rừng). Đây là hệ thống chứng nhận nhằm truy suất nguồn gốc hàng hóa.
Đây thực
sự là một thách thức đối với các DN chế biến gỗ của Việt Nam, khi phần lớn DN
có quy mô vừa và nhỏ, thường mua gỗ của dân không lưu lại hồ sơ, giấy tờ mua
bán. Chưa kể, DN XK đồ gỗ của Việt Nam chủ yếu làm hàng gia công cho nước
ngoài, nên giá trị mang lại thấp.
Theo
Viforest, các DN Việt thua hẳn về thiết kế, nên việc hưởng lợi từ các giá trị
gia tăng còn hạn chế. Sản phẩm làm ra khó thuyết phục khách hàng. Giải pháp của
phần lớn DN Việt là thuê các chuyên gia thiết kế nước ngoài với chi phí cao và
thiếu dấu ấn văn hóa Việt...
Chế biến gỗ là 1 trong 10 ngành mang lại
nguồn thu lớn nhất từ XK, đóng góp đáng kể vào GDP. Tuy nhiên, DN chưa quản
lý được toàn bộ quá trình vận chuyển gỗ từ nơi thu mua đến nơi lưu trữ, sản
xuất. Đây sẽ là “rào cản” lớn đối DN khi XK.
|
Theo baocongthuong.com.vn (Duc Luu)