Chương trình KC.08/11-15: Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển và hoàn thiện được các công nghệ dự báo tiên tiến để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm và quản lý rủi ro một số dạng thiên tai nguy hiểm như bão, lũ lụt miền trung; phát triển và hoàn thiện được các công nghệ mới trong xây dựng các giải pháp, công trình phòng chống thiên tai
Những
kết quả của Chương trình góp phần không nhỏ trong phát triển KT-XH
Đây là khẳng định của PGS.TS Lê Mạnh Hùng, Chủ nhiệm
Chương trình KC08/11-15 tại Hội nghị khoa học và công nghệ (KH&CN) phục vụ
phòng tránh thiên tai, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, (mã số KC.08/11-15) vừa diễn ra sáng nay, ngày 27/11 tại Hà Nội.
Những kết quả nổi bật
PGS.TS Lê Mạnh Hùng cho biết, Chương trình nghiên cứu được
triển khai với mục tiêu chính là áp dụng, phát triển và hoàn thiện được các
công nghệ dự báo tiên tiến để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm và quản lý
rủi ro một số dạng thiên tai nguy hiểm như bão, lũ lụt miền trung; phát triển
và hoàn thiện được các công nghệ mới trong xây dựng các giải pháp, công trình
phòng chống thiên tai. Qua các nghiên cứu có hiệu quả và tạo ra được công nghệ
tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam để có hướng xử lý ô nhiễm môi trường kết
hợp xử lý nguồn thải….
Sau 5 năm triển khai, đã có nhiều đề tài đạt kết quả xuất
sắc, chuyển giao được kết quả vào thực tiễn. Có thể kể đến một số quả nổi bật
như đề tài nghiên cứu “Xây dựng quy trình công nghệ dự báo quỹ đạo và cường độ
bão trên khu vực tây bắc Thái Bình Dương và Biển Đông hạn 5 ngày”
(KC.08.01/11-15) do GS.TS Trần Tân Tiến, trường đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Bách Khoa Hà Nội làm chủ nhiệm đã hoàn thành quy trình công nghệ dự báo, cảnh
báo bão hạn 5 ngày với cường độ chính xác đạt trình độ khu vực. Quy trình công
nghệ dự báo bão hạn 5 ngày đã được ứng dụng cho các trận bão xảy ra trong quá
khứ và được điều chỉnh, nâng cao độ chính xác khi dự báo các trận bão xảy ra
vào cuối năm 2013 và 2 trận bão năm 2014 và được chuyển giao Đài khí tượng
Đông Bắc, phòng khí tượng Bộ Tư lệnh Hải quân, Trung tâm khí tượng thủy văn
Trung ương.
Tiếp đó là đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh
báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng” (KC.08.17/11-15) do PGS.TS
Nguyễn Văn Thắng, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường làm chủ nhiệm
lần đầu tiên sử dụng bộ chỉ tiêu phân cấp hạn khí tượng và các bộ mô hình thống
kê để dự báo hạn khí tượng cho Việt Nam với thời hạn nên đến 3 tháng. Đề tài đã
xây dựng được trang web cung cấp kết quả dự báo hạn khí tượng với thời hạn 3
tháng cho các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán trên phạm vi cả nước.
Nội dung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đánh giá rủi
ro và chu trình quản lý rủi ro thiên tai với 6 đề tài cũng có những kết quả tốt,
tiêu biểu như: Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp giảm thiểu tác động bất
lợi khi vận hành hồ chứa thượng nguồn đến vùng hợp lưu các sông Thao - Đà – Lô”
(KC.08.02/11-15) do TS. Nguyễn Đăng Giáp chủ nhiệm đã thu thập được khá đầy đủ
tài liệu động lực học, diễn biến lòng dẫn và các tài liệu cơ bản liên quan tới
đoạn sông nghiên cứu qua các thời kỳ. Nhóm nghiên cứu đã đề xuất phương án quy
hoạch chỉnh trị ổn định lòng dẫn vùng hợp lưu sông Thao, sông Đà, sông Lô, sông
Hồng đảm bảo an toàn đê điều, bảo vệ khu dân cư ngoài sông, ổn định canh tác và
ổn định tuyến đường thủy.
PGS.TS Lê Mạnh Hùng, một trong những nhiệm vụ nghiên cứu
quan trọng của chương trình là nghiên cứu các công nghệ về gia cố bờ sông, bờ
biển….nội dung nghiên cứu này đã dành được sự quan tâm của các nhà khoa học và
mang lại hiệu quả cao.
Nổi bật nhất có thể kể đến đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện
công nghệ mới trong gia cố đê biển bằng phương pháp neo đất, sử dụng phụ gia
consolid và chống xói mòn lớp bảo vệ mái”, mã số KC08.03/11-15 do Trường Đại học
Thủy lợi chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong
pham vi hai tỉnh Nam Định và Thái Bình, là hai địa phương thường xuyên phải hứng
chịu sự tàn phá của các trận bão lớn. Việc khảo sát thu thập cũng như đánh giá,
điều tra các tài liệu cơ bản về khí tượng, thủy văn, dòng chảy, địa hình, địa
chất, bùn cát và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến khu vực đê của hai tỉnh
này đã được thực hiện một cách chu đáo, tỷ mỷ và thận trọng, giúp cho việc
nghiên cứu triển khai các giải pháp công nghệ mới phù hợp với thực tế.
Qua hơn 2 năm thực hiện, đề tài đã tạo ra một số giải
pháp công nghệ và vật liệu nổi bật. Đó là giải pháp công nghệ neo xoắn giúp gia
tăng lực neo giữ mảng lên rất nhiều, lực neo giữ này không những chỉ do sức
kháng kéo nhổ của các mũi xoắn tạo ra mà còn do neo có tác dụng khống chế 4 góc
mảng gia cố không cho chuyển vị ngang, liên kết các viên gia cố thành một khối.
Nghiên cứu gắn với
ứng dụng
PGS. TS Lê Mạnh Hùng nhận định, phần lớn các đề tài thuộc
chương trình đã tập trung giải quyết những vẫn đề cấp bách của thực tế, đã có
những đóng góp kịp thời cho những vấn đề xảy ra trong quá trình thực hiện đề
tài. Trình độ KH&CN của sản phẩm khoa học tạo ra tương đương với khu vực và
quốc tế.
Chỉ tiêu nâng cao năng lực cho cán bộ trẻ không chỉ thể
hiện ở số lượng Tiến sĩ, Thạc sĩ được đào tạo, số lượng các công trình khoa học
đã được công bố trên các tạp chí mà còn thể hiện qua khả năng nắm bắt thực tế,
làm việc nhóm,...
Những kết quả đạt được của Chương trình sẽ là những đóng
góp mới, có chất lượng về mặt lý luận và thực tiễn trong phòng tránh thiên tai,
bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Ông Lê Quang Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội và Tự
nhiên, Bộ KH&CN đánh giá cao những kết quả mà Chương trình nghiên cứu
KC.08/11-15 đã đạt được trong thời gian qua. Ông Lê Quang Thành cho rằng, cho tới
nay, Chương trình cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra. Nhiều đề tài đã có kết
quả ứng dụng vào thực tế tạo tiền đề cho giai đoạn nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai, Chương trình vẫn
còn một số tồn tại như sự liên kết, kế thừa và phát huy các kết quả giai đoạn
trước của chương trình chưa được liền mạch. Chương trình đã đào tạo được đội
ngũ đông đảo các nhà khoa học có khả năng nghiên cứu về những vấn đề thiên tai,
môi trường và tài nguyên nhưng chưa thực sự tạo ra được những chuyên gia giỏi,
có tính chuyên sâu. Thông qua các đề tài nhiều đơn vị nghiên cứu đã được trang
bị hiện đại phục vụ nghiên cứu khoa học nhưng chưa khai thác hết tiềm năng. Do
đặc thù công tác nghiên cứu nên Chương trình có địa bàn hoạt động rộng, hầu hết
các đề tài đều triển khai ở các địa phương nên có mối quan hệ chặt chẽ song
công tác quảng bá kết quả nghiên cứu còn ít. Điều này dẫn đến tình trạng chính
địa phương không hiểu về các kết quả nghiên cứu nên còn ngại ứng dụng, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác chuyển giao.
Để nâng cao chất lượng các đề tài trong thời gian tới,
các đại biểu tham dự hội nghị cho rằng cầm tăng cường thông tin đa chiều trao đổi
giữa các đơn vị của Ban chủ nhiệm cũng như của các đơn vị của Bộ KH&CN.
Tăng cường giao lưu giữa các nhà khoa học thông qua các hội nghị, hội thảo để
chia sẻ thông tin, tài liệu cơ bản, học tập kinh nghiệm và trao đổi học thuật.
Bên cạnh đó cũng cần chú trọng đến công tác tuyên truyền quảng bá những kết quả
nghiên cứu đến với xã hội để người dân hiểu và sẵn sàng ứng dụng các kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn.
www.truyenthongkhoahoc.vn(lntrang)