Nông sản Việt trong TPP: Thử xem xét từng nước đối thủ
Nếu vấn đề mở cửa thị trường nông sản trong TPP đối với Brunei, Singapore, Malaysia hay Chile, Peru không đặt ra vấn đề gì nghiêm trọng đối với nông nghiệp Việt Nam, thì ba nước Mỹ, Australia, New Zealand lại rất đáng lo ngại.
Theo ước tính, các nước
tham gia TPP chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu và 20% kim ngạch nhập khẩu
nông sản thế giới. Do đó, một hiệp định với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan
cho hàng hóa giữa 12 nước TPP sẽ là con đường không thể tốt hơn cho hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam.
Nhưng bên cạnh những
cơ hội rất rõ ràng, ngay từ thời điểm bắt đầu đàm phán, cũng đã có nhiều quan
ngại về những nguy cơ có thực từ các cam kết TPP với nông nghiệp Việt Nam.
Trước hết, Việt Nam
phải mở cửa mạnh thị trường, tức phải loại bỏ đa số các dòng thuế (thuế quan nhập
khẩu) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào cản kỹ thuật chưa có hoặc
không cao.
Với thị trường xuất
khẩu, có lẽ không có doanh nghiệp nào không biết rằng thuế quan chỉ là một phần
của câu chuyện. Thuế giảm hoặc được loại bỏ hoàn toàn nhưng các quy định TBT
(Technical Barriers to Trade – Hàng rào kỹ thuật thương mại) và SPS (Sanitary
and Phytosanitary Measures – Biện pháp vệ sinh dịch tễ) rất khắt khe về bao
gói, nhãn mác, về mức độ/dư lượng hóa chất tối đa trong sản phẩm, về tính hợp
pháp của nguyên liệu sử dụng… là những rào cản khiến hàng hóa Việt có thể không
có đường vào thị trường các nước TPP. Lợi ích thuế quan trong TPP vì vậy cũng sẽ
chỉ là “lợi ích trên giấy”.
Cũng liên quan tới
nông sản, nhưng ở khía cạnh sản xuất, một số cam kết trong TPP ở những lĩnh vực
tưởng như không liên quan có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và triển
vọng của hàng nông sản.
Ví dụ, với điều khoản
về lao động trẻ em, những sản phẩm được làm ra trong quy mô hộ gia đình tại những
làng nghề thủ công, với sự tham gia của trẻ em nông thôn Việt Nam sẽ là nhóm đầu
tiên phải chịu thiệt thòi.
Để có thể đưa ra những
đề xuất thích hợp trong việc xây dựng phương án bảo vệ ngành nông nghiệp Việt
Nam trước các đối thủ cạnh tranh từ các nước TPP, cần có đánh giá đầy đủ về
tương quan năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam với các đối tác TPP, đặt
trong bối cảnh các cam kết mở cửa thương mại hiện có của Việt Nam với các nước
này.
Đối
với Brunei, Malaysia và Singapore
Việt Nam đã tham gia
thỏa thuận Khu vực thương mại tự do ASEAN, trong đó có cam kết về mở cửa thị
trường nông sản cho ba nước này.
Theo cam kết trong
khuôn khổ AFTA, thuế quan của Việt Nam đối với tất cả các mặt hàng nông sản nhập
khẩu từ 03 nước này đều đã ở mức từ 0-5%, kể cả các mặt hàng nông sản nhạy
cảm như đường ăn (mặc dù đường vẫn được duy trì hạn ngạch thuế quan theo cam kết
WTO). Như vậy, về mặt thuế quan, việc mở cửa thị trường nông sản hoàn toàn cho
các nước này trong khuôn khổ TPP sẽ không làm thay đổi tình hình cạnh tranh của
Việt Nam với các đối tác này so với AFTA đã có.
Về năng lực cạnh
tranh thực tế, Brunei và Singapore tuy là hai nước có thu nhập cao nhưng nước
nhỏ và không có sản xuất nông nghiệp đáng kể. Vì vậy, khả năng nông sản Việt
Nam bị cạnh tranh mạnh từ các nước này khi Việt Nam mở cửa thị trương theo TPP
hầu như không có. Đối với Malaysia, do nước này hiện đang nhập siêu nông sản từ
Việt Nam (đặc biệt là gạo, rau quả, kể cả thịt) nên nguy cơ rủi ro khi Việt Nam
mở cửa thị trường nông sản cho Malaysia theo TPP cũng không đặt ra.
Tóm lại, vấn đề mở cửa
thị trường nông sản trong TPP đối với Brunei, Singapore và Malaysia không đặt
ra vấn đề gì nghiêm trọng đối với nông nghiệp Việt Nam.
Đối
với Australia và New Zealand
Việt Nam đã có thỏa
thuận mở cửa thị trường nông sản với trong khuôn khổ FTA giữa ASEAN và hai nước
này. Theo đó, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định
(tùy thuộc từng dòng thuế) cho nông sản đến từ Australia và New Zealand.
Lộ trình mở cửa theo
FTA này (mặc dù vẫn còn một số năm nữa mới tới hạn loại bỏ thuế hoàn toàn, tùy
loại nông sản) thực sự là một thách thức đối với Việt Nam bởi đây là hai nước
có năng lực cạnh tranh thuộc vào diện cao nhất thế giới ở các sản phẩm ngành
chăn nuôi bò (thịt bò, sữa), quả ôn đới (táo, cam…).
Trong khi đó, khả
năng tiếp cận thị trường hai nước này của nông sản Việt Nam hầu như không đáng
kể do dung lượng thị trường nhỏ (dân số của cả nước chỉ khoảng 25 triệu người),
các yêu cầu kỹ thuật (rào cản kỹ thuật) cao và khả năng cạnh tranh nội địa
về nông sản của nước họ thuộc loại cao nhất trên thế giới.
Do đó, ngay cả với
FTA đã ký, lợi ích đối với nông sản của nước ta hầu như không có, trong khi
thách thức lại rất đáng kể. Vì vậy, việc đưa ra cam kết mở cửa thị trường nông
sản trong TPP đối với hai đối tác này chỉ nên dừng lại ở mức bằng với mức đã
cam kết trong AANZFTA để tránh làm trầm trọng hơn tình hình.
Đối
với Chile và Peru
Mặc dù Việt Nam mới
có FTA với Chile năm 2011 và chưa có FTA nào với Peru nhưng đây là hai thị trường
tương đối xa (về khoảng cách địa lý), quy mô nhỏ (về dân số) và khả năng cạnh
tranh cũng gần như tương đương Việt Nam.
Vì vậy, việc mở cửa
thị trường nông sản Việt Nam cho hai nước này trong khuôn khổ TPP (dù bằng hoặc
sâu hơn mức cam kết trong FTA mới ký với Chile) sẽ không tạo ra thách thức lớn
(tại thị trường Việt Nam) và cũng không nhiều hứa hẹn.
Đối
với Mỹ
Việt Nam chưa có thỏa
thuận thương mại tự do nào với Mỹ (cả song phương và đa phương), và do đó
mức độ cam kết mở cửa thị trường nông sản của Việt Nam đối với đối tác này hiện
tại đang dừng lại ở cam kết WTO.
Về triển vọng xuất khẩu,
TPP có thể mang lại cho nông sản nhiệt đới, nhất là rau quả chế biến, của nước
ta cơ hội tiếp cận thị trường quan trọng này thông qua việc loại bỏ thuế quan.
Tuy nhiên, Mỹ áp dụng hàng rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ cao nên khả năng
thực tế để nông sản nhiệt đới xâm nhập được vào thị trường này có thể bị hạn chế
nhiều.
Mỹ hiện là thị trường
lớn thứ 2 sau EU về nhập khẩu cà phê của Việt Nam, mặc dù vậy thuế suất đối với
cà phê nhân mà Mỹ áp dụng cho Việt Nam hiện đã là 0%. Vì vậy, TPP sẽ
không mang lại thêm lợi ích nào cho sản phẩm này của Việt Nam.
Ở thị trường nội địa,
Việt Nam hiện nhập khẩu khá nhiều ngô, bông từ Mỹ. Mặc dù vậy, thuế quan mà Việt
Nam đang áp dụng đối với mặt hàng này đều thấp (0-5%), do đó nếu TPP loại bỏ
thuế ở mảng này, nông sản tương ứng của Việt Nam sẽ không gặp khó khăn hơn hiện
nay.
Tuy nhiên, Mỹ có thế
mạnh trong các sản phẩm như sữa, thịt bò, thịt gia cầm, thịt lợn và với mức thuế
suất hiện tại, Việt Nam cũng đang nhập khá nhiều từ Mỹ, nếu mở cửa các mặt hàng
này, nguy cơ sản phẩm tương tự của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh tranh với sản
phẩm nhập khẩu từ Mỹ là rất lớn.
Như vậy, có thể nói,
trong TPP, ba nước Mỹ, Australia, New Zealand là đáng lo ngại nhất đối với
Việt Nam khi thực hiện cam kết về mở cửa hàng nông sản, đặc biệt đối với các sản
phẩm chăn nuôi. Khả năng cạnh tranh của ngành này của Việt Nam còn tương đối thấp,
năng lực sản xuất và công nghệ còn hạn chế trong khi phải đối mặt thường xuyên
với các loại dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm.
Trong khi đó chăn
nuôi hiện vẫn đang là ngành tạo công ăn việc làm cho nông dân, nhóm chiếm tới
trên 80% dân số, có thu nhập thấp, không ổn định và trước nay vẫn là đối tượng
“dễ bị tổn thương” trong quá trình mở cửa thị trường. Vì vậy, đối với nhóm này,
trong mọi trường hợp, cần có mức độ bảo hộ nhất định.
Bảo hộ thế nào?
Thông thường, trong
thương mại nông sản, bảo hộ được thực hiện theo nhiều cơ chế (hợp pháp).
Áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể của TPP (với các nguyên tắc và tiến triển
như đã phân tích phía trên) thì:
Bảo hộ bằng thuế
quan: Trong TPP, bảo hộ theo cơ chế này gặp thách thức lớn.
Bảo hộ bằng lộ trình
thuế quan: Cách thức bảo hộ này tuy không triệt để (chỉ thực hiện được
trong một khoảng thời gian hạn chế) nhưng khả thi trong khuôn khổ TPP. Do đó, cần
được tận dụng triệt để cơ chế này cho những mặt hàng nông sản nhạy cảm, đặc biệt
là chăn nuôi. Trong trường hợp cụ thể của TPP, một kết quả đàm phán mở cửa nông
sản, đặc biệt là sản phẩm chăn nuôi, theo lộ trình bằng với lộ trình mà Việt
Nam đã cam kết trong AANZFTA là hợp lý và khả thi.
Bảo hộ bằng hạn ngạch
thuế quan: Cách thức bảo hộ này dường như là khả thi nhất nếu như biện
pháp thuế quan không thể áp dụng được. Trên thực tế, đây cũng là cơ chế hợp lý
hợp tình và do đó dễ được chấp nhận bởi các đối tác nói chung và đối tác trong
TPP nói riêng.
Bảo hộ bằng các biện
pháp TBT, SPS: Nhóm biện pháp này, mặc dù được thừa nhận trong WTO và được
sử dụng rất phổ biến ở các nước đối tác TPP như Mỹ, Australia, New Zealand
nhưng lại rất khó thực hiện trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, bởi nhiều lý
do. Vì một số các biện pháp TBT, SPS nếu sử dụng sẽ phải được áp dụng không
phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu – mà như vậy nếu tiêu
chuẩn quá cao sẽ gây khó cho nông sản nội địa. Hơn nữa, Việt Nam chưa có đủ nguồn
nhân lực, phương tiện và kỹ năng để thực hiện việc đảm bảo tuân thủ các biện
pháp này của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.
Trong thế giới phẳng
và biên giới mềm hiện nay, các quốc gia có nền kinh tế thấp như Việt Nam đều tận
dụng lợi thế hội nhập để nâng cao kỹ năng quản lý và khả năng cạnh tranh. Tuy bị
các quốc gia lớn gây sức ép nhiều mặt nhưng không có điều kiện nào tốt hơn là hội
nhập, chứ không thể đứng riêng lẻ bên lề một mình. Tuy nhiên, sẽ có những ngành
có lợi thế mạnh và có những ngành có lợi thế yếu, chúng ta bắt buột phải chấp
nhận “lép vế” một mặt nào đó để khai thác những ngành có lợi thế. Điều bắt buộc
là chúng ta phải hiểu đúng tiềm năng, thực lực của chính mình.