Bản tin Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) tháng 01
Cộng đồng kinh tế ASEAN: Khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ
Đảm bảo rằng, đến năm 2018, ngoại trừ danh mục 3% dòng thuế trong danh mục
loại trừ, toàn bộ số dòng thuế còn lại được thực hiện cắt giảm đúng cam kết
ATIGA...
Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) đã được thành lập vào ngày cuối cùng của năm 2015. Với sức mạnh
của 10 quốc gia Đông Nam Á cùng với hàng rào thuế quan và phi thuế quan được gỡ
bỏ, một thị trường rộng lớn đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam trong trao đổi
hàng hóa, thương mại, thu hút đầu tư và tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất,
cung ứng khu vực.
Cắt giảm nhiều dòng
thuế
Tiếp nối những
thành tựu của Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA), trong môi trường AEC, lĩnh
vực thuế được cam kết nâng cao hơn nữa nhằm tạo điều kiện đảm bảo tự do hóa
thương mại hàng hóa, tự do di chuyển vốn đầu tư và lao động trong khối ASEAN. Vụ
trưởng Vụ Chính sách Thuế, Bộ Tài chính Phạm Đình Thi cho rằng việc hình thành
AEC sẽ mang lại cả lợi ích và thách thức cho Việt Nam do phải thực hiện cắt giảm
hoàn toàn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu từ cộng đồng AEC về 0% vào
năm 2018.
Đúng theo lộ trình
cắt giảm thuế quan của Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), đến cuối
năm 2014, Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (chiếm 72% tổng Biểu thuế xuất
nhập khẩu) xuống 0%. Để tiếp tục triển khai lộ trình cắt giảm thuế quan giai đoạn
2015-2018 thực hiện Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN, Bộ Tài chính đã công bố
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định ATIGA
giai đoạn này.
Theo đó, từ ngày
1/1/2015, Việt Nam
đã cắt giảm thêm 1.720 dòng thuế từ thuế suất hiện hành 5% xuống 0% theo cam kết
ATIGA. Như vậy, chỉ còn khoảng 7% dòng thuế, tương đương 687 mặt hàng được xem
là nhạy cảm theo thỏa thuận với ASEAN chưa cắt giảm ngay về 0% trong năm 2015
mà thực hiện dần đến năm 2018 (gồm các mặt hàng nhạy cảm cần có lộ trình bảo hộ
dài hơn, chủ yếu như: sắt thép, giấy, vải may mặc, ô tô, linh kiện phụ tùng ô
tô, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng, đồ nội thất...) và 3% số dòng
thuế của biểu ATIGA được loại trừ khỏi cam kết xóa bỏ thuế quan (bao gồm các mặt
hàng nông nghiệp nhạy cảm được phép duy trì thuế suất ở mức 5%: gia cầm sống,
thịt gà, trứng gia cầm, quả có múi, thóc, gạo lứt, thị chế biến, đường).
Bộ Tài chính cũng
quy định cụ thể lộ trình cắt giảm thuế đối với 7% số mặt hàng nhạy cảm trong
giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2018. Qua đó, đã đảm bảo rằng, đến năm 2018, ngoại
trừ danh mục 3% dòng thuế trong danh mục loại trừ, toàn bộ số dòng thuế còn lại
được thực hiện cắt giảm đúng cam kết ATIGA.
Ông Nguyễn Bá Toàn,
Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính) cho biết Việt Nam đã hội nhập
kinh tế quốc tế từ hơn 10 năm trước và quá trình xây dựng thực hiện cam kết này
đã được tham vấn rộng rãi cũng như lấy ý kiến các Bộ, ngành, Hiệp hội, Tổng
công ty và doanh nghiệp.
“Lộ trình này đã
tính từ nhiều năm nay, đây chỉ là giai đoạn thực hiện cuối và các biện pháp
chính sách cũng đã tính toán để thực hiện lộ trình này. Đồng thời, công tác phổ
biến, tuyên truyền đã làm rộng rãi, các doanh nghiệp đã biết về cam kết cùng với
các biện pháp tranh thủ cơ hội và giảm thiểu tác động tiêu cực”, ông Nguyễn Bá
Toàn nói thêm.
Sức ép phụ thuộc
nguồn nguyên liệu
Theo Tiến sĩ Võ Trí
Thành, Phó Viện trưởng, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), hội
nhập với Cộng đồng kinh tế ASEAN, Việt Nam đang đón đợi nhiều cơ hội tuy nhiên
cũng sẽ tạo ra nguy cơ phụ thuộc ngày càng tăng vào các nguồn nguyên liệu nhập
khẩu và giảm đầu tư cho sản xuất tự cung cấp trong nước. Đặc biệt, nguy cơ này
sẽ ngày càng tăng khi mức độ ưu đãi về thuế ngày càng cao từ các thị trường nước
ngoài.
Ông Phạm Đình Thi
cho biết những ngành chịu tác động lớn nhất từ việc xóa bỏ thuế quan cao và sâu
rộng khi tham gia AEC bao gồm: ô tô, động cơ phụ tùng ô tô xe máy, sữa và các sản
phẩm chế biến từ sữa, bánh kẹo, thức ăn gia súc, sản phẩm nhựa, phôi thép, lốp
ô tô, máy điều hòa, máy làm lạnh, vô tuyến, tàu thuyền.
Theo tính toán của
Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2015 – 2020, ngành chăn nuôi bao gồm 5 nhóm ngành
cơ bản là thịt gà, thịt lợn, thịt trâu/bò, thịt bò và phụ phẩm và thịt khác có
tác động giảm thuế từ các Hiệp định như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc… là mức thuế
thấp hơn nhiều so với mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN). Thuế suất năm 2015 với
thị trường ASEAN là 0%, trong khi các hiệp định khác giảm dần từ mức dưới thuế
suất MFN và sẽ cắt giảm xuống 0% vào năm 2020 trở đi. Do vậy, khả năng nhập khẩu
các mặt hàng nói trên trong những năm tiếp theo có thể sẽ tăng do mức chênh lệch
thuế suất so với mức thuế MFN và các mức thuế suất ưu đãi đặc biệt khác.
Tuy nhiên xét theo
giá trị kim ngạch nhập khẩu thì các mặt hàng thuộc ngành chăn nuôi từ ASEAN,
Trung Quốc, Nhật Bản ở mức thấp hơn so với Ấn Độ, các nước TPP. Do vậy, khả
năng nhập khẩu các mặt hàng chăn nuôi từ ASEAN cũng sẽ tăng không nhiều nhất là
khi Hiệp định TPP có hiệu lực.
Tham gia AEC, khả
năng cạnh tranh của các sản phẩm sữa Việt Nam không cao do phụ thuộc chủ yếu
vào nguyên liệu và thiết bị nhập khẩu, chất lượng sữa. Thuế suất theo cam kết
qua các năm của ngành sữa nhìn chung là giảm dần đều. Việc hạ thuế suất nhập khẩu
sẽ khiến nguy cơ phụ thuộc vào nguyên liệu sữa ngoại nhập và các sản phẩm sữa
nhập khẩu ngày càng cao.
Các nước ASEAN cũng
đã thảo luận về việc dỡ bỏ hạn ngạch thuế quan đối với mặt hàng đường. Theo đó,
hạn ngạch nhập khẩu đường của Việt Nam dự kiến sẽ phải dỡ bỏ kể từ năm
2018. Nguy cơ nhập khẩu từ AEC tăng cao, sẽ khiến ngành mía đường trong nước gặp
khó khăn do ngành này đã được hưởng các chính sách bảo hộ trong một thời gian
dài.
Bên cạnh đó, theo
hiệp định ATIGA, thuế suất nhập khẩu ô tô chở người dưới 9 chỗ sẽ về 0% vào năm
2018. Đây là một thách thức bởi sau một thời gian dài bảo hộ và phát triển
chính sách trong nước, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
vẫn phát triển chậm hơn so với các quốc gia láng giềng như Thái
Lan, Indonesia, Malaysia.
Mặt khác, máy móc
thiết bị, cũng là ngành hàng chịu tác động lớn khi thuế suất giảm bởi Việt Nam
nhập khẩu các nguyên liệu trên từ 37 nước trên thế giới; trong đó Trung Quốc là
thị trường nhập khẩu chính. Ngoài ra, ngành giấy cũng sẽ chịu sự cạnh tranh gay
gắt khi thuế suất nhập khẩu giảm mạnh xuống 0% vào năm 2018.
Tiến tới phù hợp
thông lệ quốc tế
Nhiều chuyên gia
kinh tế cho rằng bên cạnh cam kết giảm thuế xuất nhập khẩu theo lộ trình AEC Việt
Nam
cần điều chỉnh hệ thống thuế nội địa. Việc điều chỉnh này không trực tiếp nằm
trong nội dung cam kết với ASEAN nhưng sẽ giúp hệ thống thuế Việt Nam phù hợp với
các thông lệ quốc tế, đơn giản hóa và minh bạch hóa hệ thống thuế; đồng thời
xác định mức động viên hợp lý, đảm bảo số thu cho ngân sách.
Bộ Tài chính cho biết
đón đầu xu thế hội nhập, Bộ đã triển khai điều chỉnh một số chính sách thuế nội
địa để vừa sức dân, vừa đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước. Theo đó, giảm
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% xuống 22% theo Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp; Thuế Thu nhập cá nhân giảm xuống còn 35%, điều chỉnh tăng hoặc giảm
thuế suất của nhiều mặt hàng trong biểu thuế tiêu thụ đặc biệt…
Trong bài viết về Đổi
mới về chính sách thuế và hải quan khi Việt Nam tham gia AEC, PGS.,TS. Lê Xuân
Trường và TS Lý Phương Duyên cho rằng cần xử lý hệ thống thuế nội địa để bổ
sung cho việc thực hiện giảm thuế theo lộ trình đến năm 2018 đối với những mặt
hàng nhạy cảm, đặc biệt là những mặt hàng sẽ giảm mạnh thuế nhập khẩu như ô tô,
xe máy. Nghiên cứu điều chỉnh tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô
tô, xe máy và một số mặt hàng khác ở mức hợp lý và mở rộng diện chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt là một giải pháp cần nghĩ đến để bổ sung cho sự suy giảm nguồn thu
của thuế nhập khẩu. Điều chỉnh tăng mức thu thuế bảo vệ môi trường và danh mục
các hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường hay tăng mức thuế suất thuế giá trị
gia tăng là những biện pháp có thể nghiên cứu trong thời gian tới.
Ông Phạm Đình Thi
cho rằng đề hạn chế tác động tiêu cực và tận dụng tích cực quá trình tham gia
AEC thì thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp về thuế để hỗ trợ
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam./.
Dệt may Việt Nam đón cơ hội từ những FTA thế hệ
mới
Vượt
lên những khó khăn về thị trường, sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia xuất khẩu
dệt may khác, dệt may Việt Nam
vẫn giữ vững vị trí tốp 5 trong số các nước xuất khẩu dệt may năm 2015. Điều
này thể hiện sự cố gắng bền bỉ không mệt mỏi của tất cả các doanh nghiệp trong
ngành.
Trước
dự báo 2016 sẽ là một năm nhiều biến động trong cả thị trường tài chính, tiền tệ
và cả mức độ tăng trưởng của thế giới, nhiều doanh nghiệp dệt may không khỏi lo
ngại trước những khó khăn thách thức mà họ sẽ phải vượt qua để xuất khẩu cán
đích.
"Nước xa không cứu được lửa gần"
Chia
sẻ những khó khăn trước mắt mà doanh nghiệp sẽ phải đối mặt, ông Nguyễn Xuân
Dương, Tổng Giám đốc Công ty May Hưng Yên-Công ty cổ phần, cho biết cùng với việc
Fed điều chỉnh lãi suất tăng và giá xăng dầu giảm sẽ ảnh hưởng lớn tới doanh
nghiệp. Chẳng hạn, hàng xuất khẩu vào Mỹ sẽ có sự so sánh với các nước xung
quanh khu vực là đã điều tiết đồng nội tệ giảm. Vì thế, nếu làm phép tính sẽ thấy
hàng Việt Nam đắt hơn và họ
sẽ chuyển đơn hàng sang Indonesia,
Myanmar
thậm chí lại sang Trung Quốc.
Ước
vọng hưởng lợi từ các Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) mới chỉ dừng lại trên giấy và vẫn chưa thể
thực hiện ngay được.
Ngay
cả TPP thực hiện sớm nhất cũng phải năm 2017 hay EVFTA cũng vậy bởi khi Quốc hội
các nước ký xong thì cũng phải chuẩn bị đủ các thủ tục thì mới có thể áp dụng
được.
Do đó, có
thể nói "nước xa không cứu được lửa gần" khi kề sát tới đây là việc
tăng giá đầu vào và sự cạnh tranh của nước khác. Vì vậy, năm 2016 sẽ là một năm
khó khăn của doanh nghiệp ngành dệt may. Cùng quan điểm này, ông Lê Tiến Trường,
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) cũng cho rằng đến giờ phút
này ngoại trừ nền kinh tế Mỹ là có nhiều tín hiệu cho thấy đã phục hồi hoàn
toàn.
Biểu hiện
rõ nhất là đã nâng trở lại lãi suất của Fed trong giai đoạn vừa qua. Nhưng những
thị trường như châu Âu, Nhật Bản và một số nước đang phát triển khác tín hiệu
tăng trưởng kinh tế không cao nên xác định tổng cầu năm 2016 của thế giới vẫn
chỉ tương đương 2015.
Ngoài ra,
dự báo giá dầu tiếp tục ở mức thấp trong năm 2016 chứng tỏ nguồn giá nguyên liệu
có ảnh hưởng trực tiếp đến dệt may như xơ polyeste, các xơ sợi làm từ các sản
phẩm tổng hợp từ hóa dầu cũng sẽ thấp. Điều này sẽ kéo theo các sản phẩm tự
nhiên như bông, các cây có sợi khác cũng phải giảm theo để cạnh tranh. Vì vậy,
mặt bằng giá chung cho sản phẩm năm 2016 là không tăng. Từ những nguyên nhân
này, ông Lê Tiến Trường ước lượng về mặt tổng cầu và đơn giá của năm 2016 sẽ
khó có sự thay đổi nếu không nói đơn giá sẽ còn thấp hơn cả 2015 nếu xu thế giá
dầu xuống dưới 30 USD.
Trong bối
cảnh này, việc tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam dự kiến sẽ chỉ đạt
từ 8-10% bởi vì các Hiệp định thì chưa có hiệu lực, cầu thấp, đơn giá thấp
nhưng tăng trưởng về sản lượng có thể đạt từ 11-12%. Nếu như vậy dệt may vẫn có
thể tăng trưởng thêm trên 2 tỷ USD và có thể đạt từ 29,5 đến 30 tỷ USD vào năm
2016.
Chủ động đón cơ hội
Nhìn lại kết
quả năm 2015, dù không đạt được kết quả như mong đợi 27,5 tỷ USD và chỉ dừng lại
ở 27 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả nước nhưng ông Lê Tiến Trường
vẫn khẳng định đây là sự cố gắng của cả một tập thể doanh nghiệp sau một năm đầy
biến cố.
Theo ông
Lê Tiến Trường, sở dĩ dệt may năm nay “lỡ hẹn” bởi mặt bằng giá chung của toàn
thế giới nhất là giá các nguyên liệu chính như dầu thô, bông đều thấp đã kéo
theo giá trị sản xuất công nghiệp giảm. Bởi vậy mà dù năm 2015 sản lượng làm ra
của các doanh nghiệp dệt may tăng nhưng do đơn giá thấp nên kế hoạch của cả năm
chỉ ngấp nghé ở con số 99%.
Hơn nữa,
các quốc gia sản xuất dệt may lớn như Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Pakistan,
Trung Quốc phá giá đồng nội tệ “biến” sản phẩm của họ có giá thành thấp hơn Việt
Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu dệt may không cán
đích.
Để đạt mục
tiêu đề ra trong năm 2016 cũng như đón đầu cơ hội từ những FTA thế hệ mới mang
lại, ông Trần Quang Nghị, Chủ tịch Vinatex, cho biết mới đây, Tập đoàn đã đưa
vào hoạt động ba dự án sản xuất các loại nguyên liệu gồm sợi Phú Hưng, nhà máy
dệt nhuộm I-an-dai tại Long An và nhà máy sợi cao cấp đặc biệt tự động hóa cao
nhất tại Việt Nam để tạo ra nguồn sợi chất lượng cao cho nhà máy I-an-dai. Đồng
thời, Tập đoàn cũng mua lại nhà máy sản xuất vải tại khu vực Hòa Khánh (Đà Nẵng)
để cung cấp thêm các loại vải sản xuất quần tại khu vực này.
Cùng
với đó, hiện tại Vinatex đang có sáu dự án may đang triển khai tại các vùng và
đang nằm trong chuỗi liên kết sản xuất dệt kim cũng như quần áo dệt thoi và
veston mới.
Dự kiến,
các dự án này sẽ hoàn thành trong nửa đầu năm 2016 còn dự án sợi Nam Định sẽ
hoàn thành trong quý 1/2016
và đang
chuẩn bị để bắt đầu đi vào đầu tư khu Liên hợp sợi-dệt-nhuộm tại Quế Sơn (Quảng
Nam). Khu này với quy mô khoảng 12.000 tấn vải dệt kim/năm, đủ sức cung ứng sản
phẩm vải dệt kim cho quy mô sản xuất may cỡ khoảng 15.000 lao động và trở thành
vệ tinh liên kết trong các chuỗi cung ứng.
"Mục
tiêu đến năm 2020 dệt may phải đạt 65% tỷ lệ nội địa trong hàng hóa sản xuất.
Tuy nhiên, dự kiến trong năm 2018 tại thời điểm cả TPP và EVFTA có hiệu lực thì
Vinatex phải chủ động khoảng 60% nguồn nguyên liệu từ sợi và từ vải trở đi để
đáp ứng điều kiện của hai Hiệp định này," ông Trần Quang Nghị khẳng định.