Nhờ những tác động tích cực từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thủy sản của Việt Nam vào các thị trường “khó tính” được dự báo sẽ tăng cao trong năm 2016. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh các thị trường này, ngành thủy sản Việt Nam còn nhiều việc cần phải làm ngay.
Rộng đường xuất khẩu
Ông
Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt
Nam (VASEP), cho biết: Lợi ích lớn nhất ngành thủy sản sẽ có được khi các Hiệp
định FTA mà Việt Nam tham gia ký kết có hiệu lực như Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), FTA Việt Nam- EU, Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam-Hàn Quốc… đó là tiếp cận thuế quan ưu đãi (0%). Điều này có những tác động
tích cực đến ngành hàng thủy sản trong việc mở rộng thị phần, thúc đẩy sản xuất
trong nước, tăng hàm lượng chế biến và có nhiều cơ hội phát triển hơn. Đặc biệt
là tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam như Mỹ, EU,
Nhật Bản...
Hiện nay, thuế nhập khẩu ở thị
trường Mỹ đang ở mức trung bình 0,3% đối với thủy sản sống, 4,7% cho thủy sản
đã qua chế biến. Tại Nhật Bản, trung bình thuế quan khoảng 3,5% với thủy sản
sống và 7,3% với thủy sản chế biến. Hay EU, hiện nay thuế nhập khẩu thủy sản
vào thị trường này rất cao, như tôm ở mức 17% - 20%, cá tra: 8-16%, cá ngừ:
18-24%, cua: 8%...
Bên cạnh đó, việc ký kết các FTA còn
giúp Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Như theo Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc, Hàn Quốc cam kết cấp hạn ngạch thuế
quan 10.000 tấn/năm cho mặt hàng tôm với thuế suất nhập khẩu 0%. Hạn ngạch này
có hiệu lực vào đầu năm 2016, trong khi cả ASEAN cũng chỉ có chung hạn ngạch
5.000 tấn/năm dành cho 10 nước. Như vậy, xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Hàn
Quốc đã có lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh trong ASEAN như Thái Lan,
Indonesia, Malaysia...
Hơn nữa, thủy sản đang là xu hướng
tiêu dùng được lựa chọn nhiều hơn trong bối cảnh có nhiều chuyển biến về dịch
bệnh, chất dinh dưỡng. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
(FAO), mức tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người trên thế giới liên tục
tăng cao, từ 11,8 kg/người/năm (1981) lên 16,8 kg/người/năm (2006) và 20
kg/người/năm (2030).
VASEP dự báo năm 2016, nhờ
những tác động tích cực từ các FTA, giá trị xuất khẩu tôm sẽ đạt khoảng 3,3 tỷ
USD, tăng 12% so với năm 2015, trong đó các thị trường chính là Hàn Quốc, Nhật,
EU, ASEAN... Cá ngừ vào khoảng 507 triệu USD, tăng 8%; các sản phẩm mực,
bạch tuộc là 470 triệu USD, tăng 10%....
Phát huy lợi thế
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, thủy sản
được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, chiếm 4-5% GDP, chiếm
6-7% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, đứng thứ 5 về giá trị xuất khẩu (sau
điện tử, may mặc, dầu thô và giày dép). Việt Nam đã đứng thứ 3 thế giới về nuôi
trồng thủy sản (sau Trung Quốc, Ấn Độ), thứ 4 thế giới về xuất khẩu thủy sản
(sau Trung Quốc, Na uy, Thái Lan). Trong 10 năm qua, ngành nuôi trồng và chế
biến thủy sản xuất khẩu Việt Nam không ngừng phát triển và đã trở thành một
ngành sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu sang
165 thị trường, 612 nhà máy chế biến quy mô công nghiệp đạt quy chuẩn an toàn
thực phẩm, trong đó có 461 nhà máy đạt điều kiện xuất khẩu sang EU (chiếm hơn
75%). Thủy sản Việt Nam có giá trị gia tăng cao, kim ngạch xuất khẩu lớn: năm
2015 xuất khẩu thủy sản của cả nước ước đạt 6,7 tỷ USD và đặt mục tiêu năm 2016
đạt trên 7 tỷ USD.
Tuy nhiên, ông Nam cũng cho rằng,
ngành thủy sản sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khi hội nhập. Quy định của
thị trường sẽ ngày càng cao và nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm, truy nguyên
nguồn gốc, trách nhiệm môi trường và bảo vệ nguồn lợi (IUU), thuế chống bán phá
giá... Chẳng hạn, những quy định của TPP về quy tắc xuất xứ sẽ gây khó khăn cho
một số mặt hàng xuất khẩu thủy hải sản chủ lực của Việt Nam. Do đó, một trong
những vấn đề căn bản để tận dụng được sự ưu đãi về thuế quan sau khi kí các
hiệp định FTA và TPP đó là ta phải có nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng tốt.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký
VASEP cho biết, ngành thủy sản cần nhanh chóng khắc phục bài toán giảm giá
thành để tăng sức cạnh tranh và giải quyết nạn ô nhiễm môi trường, giảm dịch
bệnh, có như vậy mới phát triển bền vững được. Bởi hiện nay, giá thành sản phẩm
thủy sản Việt Nam cao hơn so với các nước đối thủ, trong khi đó chi phí sản
xuất tiếp tục tăng do đầu vào phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nước ngoài (con
giống, thức ăn, thuốc thú y).
Ví dụ, giá thành sản xuất một con
tôm giống của Việt Nam hiện nay cao gấp gần 2 lần so với Ấn Độ. Chi phí cho
thức ăn trong chăn nuôi tôm của Việt Nam cũng cao hơn bình quân 40%. Trong khi
đó, do nhiều yếu tố môi trường và dịch bệnh, tỷ lệ tôm nuôi thành công của Việt
Nam hiện vẫn thấp, chỉ khoảng 33% - 40%, trong khi Indonesia hay Ấn Độ tỷ lệ
nuôi thành công lên tới 70%. Những yếu tố này khiến giá thành tôm nguyên liệu
của Việt Nam luôn cao hơn đối thủ từ 1- 3 USD/kg...
Đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn cho biết, sẽ hỗ trợ tối đa để doanh nghiệp hoàn thành mục tiêu
xuất khẩu thủy sản 2016. Bộ cũng sẽ sát cánh cùng doanh nghiệp trong quá trình
hội nhập FTA, TPP. Hiện nay, Tổng cục Thủy sản đang phối hợp với ngành chức
năng tổ chức quy hoạch lại những vùng nuôi trồng thủy sản tập trung. Song song
đó, ngành sẽ đề xuất các giải pháp để đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi
trồng thủy sản, thực hiện tổng điều tra và sắp xếp lại các doanh nghiệp chế
biến theo hướng tập trung ở các cụm công nghiệp gắn liền với vùng nguyên liệu
tập trung để giảm chi phí sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và dễ quản lý…
Theo VASEP: Năm 2015, ước
tính tổng giá trị xuất khẩu thủy sản sang các nước thành viên tham gia TPP
đạt gần khoảng 3 tỉ USD, chiếm 46% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam. Việc tham gia vào các hiệp định thương mại sẽ giúp thủy sản Việt Nam tiếp
tục mở cửa và hội nhập hơn nữa vào các thị trường này.
|