Ngành dệt may chưa tận dụng cơ hội FTA
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư đối với ngành sản xuất nguyên phụ liệu thấp, thời gian thu hồi vốn lâu. Mặt khác, mức độ rủi ro đầu tư cao do chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi. Đó là nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp (DN) không mặn mà đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu, dù những lợi thế của các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được áp dụng.
Một
máy dệt sợi = nhà máy dệt may
Tại cuộc họp về
phát triển ngành nguyên phụ liệu dệt may do Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) tổ
chức, nhiều chuyên gia kinh tế khẳng định, cơ cấu ngành dệt may Việt Nam vẫn
đang phát triển theo hướng phình rộng phần đầu tư cho dệt may, trong khi ngành
sản xuất phụ liệu vẫn hạn chế.
Cụ thể, hiện cả
nước có 5.028 DN dệt may nhưng trong số này chỉ có 604 DN sản xuất nguyên liệu
phụ trợ cho ngành. Đây là lý do mà ngành dệt may Việt Nam sau bao nhiêu năm
phát triển vẫn luôn khủng hoảng thiếu nguyên phụ liệu sản xuất. Điều đáng nói
là thực trạng này sẽ chưa thể khắc phục trong thời gian ít nhất là 5 năm tới.
Không đảm bảo
khâu cung ứng nguyên liệu cũng đồng nghĩa là DN dệt may Việt Nam sẽ không thể kỳ
vọng tạo nên những đột phá trong hoạt động xuất khẩu sản phẩm sang thị trường
thế giới, nhất là những nước đã ký FTA với Việt Nam.
Thống kê từ Bộ
Công Thương cho thấy, ngoại trừ thị trường Hàn Quốc đang có đến 85% sản phẩm Việt
Nam xuất khẩu đã được hưởng thuế suất ưu đãi, còn với các FTA khác, chỉ có 35%
- 40% lượng hàng hóa xuất khẩu của nước ta được hưởng ưu đãi thuế suất, số còn
lại vẫn phải chịu mức thuế từ 12% - 25%.
Nguồn cung ứng
nguyên phụ liệu tại thị trường trong nước thiếu hụt đã tạo dư địa lớn cho nhà đầu
tư tham gia vào lĩnh vực này. Thế nhưng cho đến nay, việc tận dụng dư địa này
chủ yếu mới tập trung vào những DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Theo số liệu
của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, tính đến hết năm 2015, vốn FDI vào ngành dệt may
đã chạm ngưỡng 2 tỷ USD.
Sự vắng bóng đầu
tư của các DN nội trong lĩnh vực này cũng được lý giải do thiếu vốn, thiếu cơ
chế hỗ trợ. Đại diện Công ty Hoàn Mỹ khẳng định, chỉ cần vài trăm tỷ đồng là DN
đã có thể xây dựng nhà máy may hiện đại với quy mô sản xuất vừa và lớn, thế
nhưng số tiền trên lại chỉ đủ để đầu tư một máy sản xuất nguyên phụ liệu.
Đơn cử, để đầu
tư một máy sản xuất phụ liệu dây kéo, công ty phải bỏ ra số vốn lên đến 25 triệu
USD. Với những loại máy dệt sợi thì chi phí đầu tư còn cao hơn rất nhiều lần. Mặt
khác, nhiều tỉnh, thành phố hạn chế cấp phép cho lĩnh vực dệt nhuộm - khâu
không thể thiếu để tạo ra vải thành phẩm - cũng là nguyên nhân khiến cho quy
trình xuất xứ sản phẩm dệt may Việt Nam không hoàn chỉnh, không được hưởng ưu
đãi về thuế do không đảm bảo về quy tắc xuất xứ.
Tận
dụng cơ hội ngắn hạn để đẩy mạnh đầu tư dài hạn
Đó là giải pháp
tốt nhất mà DN nội đang áp dụng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dệt may. Phân tích kỹ
những điều khoản trong các FTA cho thấy, với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) có hẳn chương quy định danh mục thiếu hụt cho phép. Theo đó, có khoảng
204 danh mục mặt hàng vải mà DN được phép lấy từ những nước không phải là thành
viên TPP.
Trong đó, có 8
mã được lấy nguồn cung từ ngoài trong thời hạn là 5 năm kể từ khi TPP có hiệu lực;
những mã hàng còn lại thì được lấy nguồn cung ứng ngoài vĩnh viễn. Hay như FTA
Việt Nam - Nhật Bản, có những ngoại lệ cho một số danh mục nguyên liệu sản phẩm
(từ vải thô đến vải thành phẩm).
Theo đó, DN có
thể nhập vải thô từ một nước thành viên FTA Việt Nam - Nhật Bản, ASEAN - Nhật Bản
và gia công thành phẩm tại một nước khác ngoài thành viên FTA hoặc Cộng đồng
kinh tế ASEAN, sau đó cắt may tại Việt Nam thì vẫn được hưởng ưu đãi thuế suất
về quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản…
Tương tự, với
nhiều FTA khác, tùy vào quy tắc linh hoạt, cho phép DN được chọn mức độ vi phạm
quy tắc xuất xứ khoảng 10% áp dụng với giá trị hoặc trọng lượng đơn hàng. Đây
được xem là những cơ hội hay còn gọi là điểm đèn vàng để DN Việt Nam có thể tận
dụng.
Ngoài ra, về lâu
dài, cần thiết phải cải thiện cơ cấu sản xuất để tranh thủ tối đa lợi thế từ
các FTA. Bà Vũ Tường Anh, Giám đốc Chương trình sử dụng hiệu quả tài nguyên
IFC, cho biết DN cần thiết phải tận dụng nguồn vốn hỗ trợ. Hiện đang có 60 ngân
hàng đã được kết nối để tham gia tài trợ dự án đầu tư sản xuất có tính đến yếu
tố thân thiện với môi trường.
Theo đó, với
lĩnh vực dệt may, những DN có nhu cầu đầu tư những dự án xử lý chất thải trong
quá trình dệt nhuộm, cải thiện dây chuyền sản xuất theo hướng tiết kiệm nguồn
tài nguyên thiên nhiên, nguyên phụ liệu đều có cơ hội nhận được những khoản hỗ
trợ đầu tư vốn lên đến hàng triệu USD.
Đơn cử, IFC
(thành viên của nhóm Ngân hàng Thế giới WBG, tập trung vào khối tư nhân,
chuyên về hoạt động đầu tư, tư vấn, huy động tài chính) và ngân hàng đối tác,
các Công ty Dịch vụ năng lượng (ESCO), Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Văn
phòng Tiết kiệm năng lượng thuộc Bộ Công Thương, Quỹ Tín dụng xanh đang có những
chính sách hỗ trợ đầu tư cho ngành dệt may, với quy mô tín dụng giao động từ
10.000USD đến 1 triệu USD.
Doanh nghiệp
cũng có thể được bảo lãnh 50% tổng vốn vay tại ngân hàng (tối đa 1 triệu USD).
Đồng thời có thể tài trợ (trả thưởng) đến 25% tổng vốn đầu tư nếu dự án đạt được
vấn đề cải thiện môi trường, được đo đạc thông qua các thông số định trước… Vấn
đề còn lại là DN sẽ tận dụng nguồn lực này như thế nào để cải thiện cơ cấu sản
xuất của ngành dệt may hiện nay.
Hơn 60% DN vừa
và nhỏ của Việt Nam chỉ có định hướng đầu tư từ 5 - 10 năm thay vì 50 năm như
DN Nhật Bản. Điều này xuất phát từ sự ổn định trong chính sách thu hút, hỗ trợ
đầu tư từ phía Chính phủ. Việc thay đổi luật, chính sách hỗ trợ đầu tư của Việt
Nam quá thường xuyên, chưa tính những yếu tố bất cập trong quy định trực tiếp
hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chiến lược đầu tư phát triển của
DN.
Do đó, với những
dự án đòi hỏi thời gian hoàn vốn từ 20 năm trở lên như ngành sản xuất nguyên phụ
liệu dệt may rất khó được nhà đầu tư lựa chọn.