Hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư phế quản
Nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Phổi Trung ương do PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ đứng đầu mới đây đã xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản (UTPQ) sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản, quy trình chẩn đoán gen VGFR trong ung thư phế quản và quy trình điều trị đích ung thư phế quản bằng Bevacizumab phù hợp và khả thi tại Việt Nam.
Hình ảnh tổn thương phế quản qua nội
soi ánh sáng trắng
Đây là tín hiệu đáng mừng cho các bệnh nhân UTPQ, bởi
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, bệnh UTPQ là bệnh có tỷ lệ mắc
và tử vong cao hàng đầu trong các bệnh ung thư.
Tỉ lệ mắc và tử vong cao
PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ, Bệnh viện Phổi Trung ương cho biết,
trên thế giới, mỗi năm có 14 triệu người mới mắc ung thư và khoảng 8,2 triệu
người chết vì ung thư. UTPQ đứng đầu về mắc và chết do ung thư, bằng tổng các
trường hợp tử vong do ung thư tiền liệt tuyến, vú và đại tràng cộng lại.
Tại Việt Nam, ung thư phế quản đứng đầu ở nam và đứng thứ
ba ở nữ. Tỷ lệ mắc UTPQ ở Hà Nội: 39,5/100.000 dân (tính trong giai đoạn từ năm
2004 đến năm 2008) ở nam; 10,5/100.000 dân (2001 – 2004) ở nữ. Tại TP. HCM:
26,9/100000 nam và 7,5/100.000 nữ. Đặc biệt, tỉ lệ bệnh nhân mắc ung thư phế quản
tăng rất nhanh chóng trong những năm gần đây.
Cũng theo PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ, đa số người bệnh được chẩn
đoán và điều trị ở giai đoạn muộn (IIIb và IV). Hiện nay, các tiến bộ về công
nghệ sinh học và dược phẩm đã cho phép điều trị đích và giúp người bệnh kéo dài
sự sống. Tuy nhiên, chẩn đoán sớm vẫn là chìa khóa để tiến tới điều trị khỏi bệnh
ung thư. Với điều kiện ở Việt Nam, để điều trị sớm và điều trị đích cho UTPQ,
các bệnh viện hoàn toàn có thể ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật để sàng lọc
và chẩn đoán sớm bệnh ung thư phế quản.
Xuất phát từ thực tế nói trên, nhóm nghiên cứu của Bệnh
viện Phổi Trung ương đã đề xuất và triển khai đề tài “Nghiên cứu ứng dụng kỹ
thuật tiên tiến trong sàng lọc, chẩn đoán sớm và điều trị đích ung thư phế quản
tại Việt Nam”, mã số KC.10.29/11-15 thuộc Chương trình khoa học và công nghệ
(KH&CN) trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 “Nghiên cứu ứng dụng
và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng”
(mã số KC.10/11-15). Theo PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ - Chủ nhiệm đề tài, nhóm nghiên
cứu hướng đến mục tiêu xây dựng được quy trình sàng lọc, chẩn đoán sớm UTPQ;
xây dựng được quy trình điều trị đích UTPQ bằng Bevacizumab; đánh giá được hiệu
quả sàng lọc, chẩn đoán và điều trị UTPQ bằng các quy trình này.
Sàng lọc, chẩn đoán sớm
và điều trị UTPQ bằng kỹ thuật tiên tiến
Trong giai đoạn từ tháng 4/2013 đến tháng 9/2015, nhóm
nghiên cứu đã tập trung thực hiện, sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau như: sàng lọc bằng xét nghiệm đờm. Phương pháp này có giá trị để phát hiện
các khối u trung tâm. Độ nhạy của tế bào học đờm cho bệnh nhân ung thư phổi
giai đoạn đầu chỉ trong khoảng 20-30%); sàng lọc chẩn đoán bằng Xquang và chụp
cắt lớp (CT) lồng ngực liều thấp. Phương pháp này có độ nhạy cao nhưng giá
thành đắt, khuyến cáo nên sàng lọc với những người ≥ 50 tuổi đã hút thuốc
>20 bao năm; sàng lọc bằng dấu ấn khối u nhưng không đặc hiệu. Phương pháp
này có độ nhạy, độ đặc hiệu cao; sàng lọc bằng nội soi phế quản. Phương pháp
này sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật (máy nội soi phế quản huỳnh quang), hạn
chế với những tổn thương ngoại vi.
Về quy trình điều trị đích UTPQ, PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ cho
biết, phương pháp này gồm các bước xác định mô bệnh UTPQ, là tiêu chuẩn vàng để
xác định chẩn đoán và quyết định điều trị bệnh; xác định các gene chi phối khối
u (EGFR, VEGF); xác định phác đồ điều trị; đánh giá hiệu quả.
Để xây dựng được quy trình sàng lọc, chẩn đoán sớm UTPQ
và đánh giá được hiệu quả sàng lọc, chẩn đoán sớm UTPQ bằng quy trình trên,
nhóm nghiên cứu đã xây dựng quy trình lý thuyết, triển khai thu thập thông tin
dựa trên qui trình lý thuyết và hoàn chỉnh qui trình, căn cứ vào các bằng chứng
để xác định hiệu quả của qui trình.
Đồng thời để xây dựng được quy trình điều trị đích UTPQ
và đánh giá hiệu quả qui trình điều trị đích UTPQ bằng Bevacizumab, nhóm nghiên
cứu đã triển khai xây dựng quy trình phát hiện biểu hiện VEGF mRNA, xác định tỷ
lệ biểu hiện VEGF và phân bố kiểu gene VEGF trên bệnh nhân UTPQ không tế bào nhỏ;
xây dựng qui trình điều trị đích UTPQ bằng Bevacizumab; đánh giá hiệu quả của 2
qui trình dựa trên bằng chứng qui chuẩn quốc tế và các chỉ tiêu thời gian sống
thêm và tác dụng phụ của qui trình có Bevacizumab.
Nhóm nghiên cứu đã chọn đối tượng là những người trên 40
tuổi đang sống và sinh hoạt trong cộng đồng, gồm 60 bệnh nhân UTPQ giai đoạn
IIIb, IV tại Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hưng Yên và Bệnh viện Phổi Trung ương.
Nghiên cứu được tiến hành qua các bước: phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi đã thiết
kế được nghiệm thu; chụp X - quang ngực thường qui; nội soi phế quản ánh sáng
trắng và huỳnh quang, sinh thiết vị trí tổn thương để làm xét nghiệm mô bệnh học;
tách chiết RNA, tổng hợp cDNA; chẩn đoán VEGF mRNA trên bệnh phẩm UTPQ
(Realtime PCR); phác đồ có Bevacizumab 7,5mg/kg+Gemzaz+Cisplatin.
Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công quy trình
sàng lọc ung thư phế quản sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản.
Quy trình đơn giản, có thể áp dụng tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh.
Đồng thời, xây dựng thành công quy trình chẩn đoán gen
VGFR trong ung thư phế quản. Quy trình phát hiện bộc lộ gene VEGF mRNA và kiểu
gene VEGF đã được xây dựng với các yêu cầu kỹ thuật bảo đảm và cho kết quả xét
nghiệm gen chính xác. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng sinh phẩm chế tạo tại đơn vị
nghiên cứu, giá thành rẻ hơn của nước ngoài nhưng kết quả tương tự. Quy trình
này có thể ứng dụng rộng rãi tại bất kỳ phòng xét nghiệm sinh học phân tử nào.
Dấu ấn phân tử VEGF mRNA biểu hiện ở 93,3% ở máu ngoại vi của các bệnh nhân ung
thư phổi không tế bào nhỏ. Giá trị tăng thêm của quá trình thực hiện qui trình
bộc lộ gene là đã lần đầu tiên phát hiện được vật chất di truyền oncovirus
merkel cell carcinoma trên bệnh nhân ung thư phổi Việt Nam. Tỷ lệ có Merkel
cell virus ở 23,9% số bệnh phẩm ung thư phổi. Cùng với đó, xây dựng thành công
quy trình điều trị đích ung thư phế quản bằng Bevacizumab phù hợp và khả thi tại
Việt Nam.
Theo nhóm nghiên cứu, việc triển khai sàng lọc yếu tố
nguy cơ bằng bộ câu hỏi có thể áp dụng rộng rãi tại cơ sở y tế khám, chữa bệnh
các tuyến cho người có nguy cơ cao về UTPQ. Tỷ lệ bộc lộ gene VEGF ở bệnh nhân
ung thư phổi là rất cao (93,3%) cho nên không nhất thiết coi xét nghiệm VEGF
như một chỉ định bắt buộc cho bệnh nhân ung thư phổi trước khi điều trị thuốc ức
chế sinh mạch. Bevazicumab điều trị đích đã chứng tỏ tác dụng điều trị kéo dài
thời gian sống cho người bệnh UTPQ.
www.truyenthongkhoahoc.vn(lntrang)