Nghiên cứu xây dựng qui trình chẩn đoán virus gây bệnh lùn sọc đen ở Việt Nam bằng kỹ thuật sinh học phân tử
Năm 2105, PGS.TS. Phạm Xuân Hội cùng các cộng sự tại Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã Nghiên cứu và xây dựng thành công quy trình chuẩn đoán virus gây bệnh lùn sọc đen ở Việt Nam bằng kỹ thuật sinh học phân tử (đây là nghiên cứu nằm trong chương trình nghiên cứu trọng điểm và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020) với mục tiêu chính là hoàn thiện quy trình chẩn đoán.
Kết quả nghiên cứu đề tài
đã xây dựng một quy trình chẩn đoán tối ưu phát hiện virus gây bệnh lùn sọc đen
tại Việt Nam bằng phản ứng chuỗi trùng hợp (RT-PCR), đồng thời đưa ra các cơ sở
khoa học cho việc xây dựng một quy trình chẩn đoán nhanh virus bằng kỹ thuật thử
nghiệm miễn dịch liên kết men (ELISA) để nghiên cứu chuyên sâu về bản chất phân
tử virus, từ đó dự báo cũng như có những biện pháp phòng chống hiệu quả, bảo vệ
lúa cho người nông dân.
Các kết quả nghiên cứu của
đề tài cũng đóng góp rất lớn cho các nghiên cứu hệ gene, đa dạng di truyền,
phân loại, tiến hóa, cũng như tạo giống chống lại vi rút bằng công nghệ gen và
là cơ sở dữ liệu quan trọng để nghiên cứu tính độc, nguy cơ phát sinh chủng mới
phục vụ công tác dự tính, dự báo đảm bảo tính bền vững cho ngành Nông nghiệp của
Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Qua ba năm nghiên cứu, các kết quả đạt được như sau:
Đã thu thập và bảo quản mẫu
bệnh được 251 mẫu bệnh ở các vùng trồng lúa khác nhau gồm: các tỉnh thuộc đồng
bằng Bắc Bộ (Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình,...); Hà Nội và các tỉnh lân cận (Hải
Dương, Bắc Ninh,..); các tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc (Lào
Cai, Sơn La; Điện Biên,...); các tỉnh Bắc Trung Bộ (Thanh hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh,...) và các tỉnh thuộc Duyên hải miền Trung (Huế, Đà Nẵng,...).
|
Hình ảnh lúa mắc bệnh |
Xét nghiệm mẫu bệnh và
phân lập thành công hệ gen của 13 phân đoạn S7, S9 và S10 của 13 chủng vi rút
lùn sọc đen phương Nam (RNA sợi đôi) (SRBSDV) từ các mẫu bệnh ở các vùng sinh
thái khác nhau. Trình tự đầy đủ các phân đoạn đã được nhân bản bằng phản ứng
RT-PCR với cặp mồi đặc hiệu đã thiết kế, dòng hóa vào vector nhân dòng và biến
nạp vào tế bào E.Coli.
Giải trình được đầy đủ ba
phân đoạn S7, S9 và S10 của 13 chủng vi rút SRBSDV đại diện cho 5 vùng trồng
lúa khác nhau của Việt Nam. Các phân đoạn S7, S9 và S10 có độ dài lần lượt là
2176 bp, 1891 bp và 1798 bp tương tự với độ dài đầy đủ của các phân đoạn đã được
công bố trên ngân hàng gen thế giới. Kết quả từ phân tích và so sánh trình tự
nucleotide cho thấy các chủng vi rút Việt Nam có mức độ tương đồng nucleotide đạt
98-99% so với các chủng vi rút của Trung Quốc, chứng tỏ các vi rút này đều xuất
phát từ một quần thể vi rút duy nhất trong cùng khu vực địa lý, tại cùng một thời
điểm và bắt đầu có xu hướng phân ly để hình thành nhóm mới.
Thiết kế thành công được
hai cặp mồi cho phép nhân bản đặc hiệu một đoạn trình tự bảo thủ dài 446 Nu
trên phân đoạn S10 để dùng cho xét nghiệm chẩn đoán vi rút SRBSDV bằng RT-PCR.
Cặp mồi có mức tương đồng 100% với trình tự nucleotide của các chủng vi rút
SRBSDV ở Việt Nam và không tương đồng với trình tự S10 của SRBSDV. Tối ưu được
các yếu tố và điều kiện cho phản ứng RT-PCR chuẩn đoán vi rút SRBSDV Việt Nam.
Thử nghiệm thành công quy
trình chẩn đoán vi rút SRBSDV Việt Nam bằng RT-PCR. Quy trình thử nghiệm trên
192 mẫu cho kết quả chính xác 100% với các cây lúa đã biểu hiện triệu chứng bệnh.
Ngoài ra quy trình xét nghiệm còn có thể phát hiện sự có mặt của virút trong những
cây lúa chưa biểu hiện rõ triệu chứng bệnh.
Lây nhiễm nhân tạo thành
công vi rút SRBSDV Việt Nam bằng phương pháp sử dụng rầy lưng trắng làm trung
gian. Cây lúa bị lây nhiễm nhân tạo có đầy đủ các biểu hiện đặc trưng của bệnh
lúa lùn sọc đen và cho kết quả dương tính với xét nghiệm chẩn đoán bằng kỹ thuật
¬RT-PCR.
Phân lập, tinh lọc thành
công protein vỏ P10 của vi rút SRBSDV Việt Nam và hai giai đoạn peptide bảo thủ
Pep1 và Pep2 tái tổ hợp có độ tinh sạch cao, liên kết đặc hiệu với kháng thể
anti-his tag trong kỹ thuật lai thẩm tách miễn dịch.
Sản xuất thành công kháng
thể đa dòng kháng protein P10 trên chuột bạch. Kháng thể đa dòng tinh sạch có
hiệu giá cao, ở nồng độ pha loãng 1:5000 có thể phát hiện được sự có mặt của vi
rút trong dịch chiết cây pha loãng 1:200 bằng kỹ thuật ELISA.
Thử nghiệm thành công
phương pháp hai loại xét nghiệm chẩn đoán vi rút SRBSDV bằng kỹ thuật ELISA, sử
dụng hai loại kháng thể tinh khiết đã tạo được. Kháng thể tinh khiết có thể
phát hiện chính xác sự có mặt của vi rút SRBSDV trong mẫu cây ngô, lúa, và mẫu
rầy nhiễm vi rút.
Chuyển giao được quy
trình chẩn đoán bệnh lúa lùn sọc đen tại Việt Nam dựa trên kỹ thuật RT-PCR cho
hai trung tâm bảo vệ thực vật và thực nghiệm chẩn đoán bệnh lùn sọc đen thành
công. Kết quả thử nghiệm trên 252 mẫu cây bệnh và 20 mẫu cây khỏe cho kết quả
chính xác 100%.
Do quy trình chẩn đoán
chính xác hiệu quả vi rút gây bệnh lúa lùn sọc đen tại Việt Nam dựa trên kỹ thuật
RT-PCR này có giá thành cao, đòi hỏi phải có phòng thí nghiệm trang bị đầy đủ,
cán bộ kỹ thuật có chuyên môn cao để thực hiện xét nghiệm, cho nên nhóm nghiên
cứu tiến tới xây dựng một quy trình chuẩn đoán chính xác nhưng đơn giản, dễ thực
hiện trên quy tắc kháng nguyên - kháng thể nhằm mang lại hiệu quả kinh tế và khả
năng áp dụng thực tiễn cao.
Có thể nói, quy trình chẩn
đoán bệnh cho lúa này có thể áp dụng làm quy trình chẩn đoán cho các cơ quan kiểm
dịch thực vật, các Viện, Chi cục và Trung tâm nghiên cứu Bảo vệ thực vật và các
trường Đại học Nông nghiệp & Lâm nghiệp.
Việc phát hiện sớm, chính
xác sự có mặt của vi rút sẽ là cơ sở quan trọng để đề xuất các biện pháp phòng
trừ hiệu quả để giảm thiểu sự mất mát lớn cho người nông dân. Và là cơ sở để
nghiên cứu tính độc, nguy cơ phát sinh chủng mới phục vụ công tác dự báo đảm bảo
tính bền vững trong Nông nghiệp.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số
10957) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.