Nghiên cứu chế tạo hợp kim titan y sinh cấy ghép trong cơ thể người
Từ năm 2012 đến năm 2014, nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ do ThS. Nguyễn Tiến Tài làm chủ nhiệm, đã nghiên cứu chế tạo thành công hợp kim titan y sinh cấy ghép trong cơ thể người.
Từ thập niên 50, titan được
đưa vào sử dụng trong ngoại khoa, tuy nhiên, trước đó một một thập kỷ, vật liệu
này đã được sử dụng trong nha khoa. Hiện nay, titan là vật liệu được ứng dụng rộng
rãi trong y tế để làm các bộ phận giả, dụng cụ cố định, thay thế các cơ quan
bên trong cơ thể, đặc biệt là xương. Titan được sử dụng để thay thế hầu hết các
bộ phận trên cơ thể người… Nhu cầu sử dụng vật liệu hợp kim titan y sinh ở nước
ta ngày một lớn. Hàng năm, cả nước có tới hàng chục nghìn trường hợp cần nẹp
xương, làm hàm, trồng răng, làm van tim, đặt sten thông mạch máu… Tuy nhiên,
khâu nghiên cứu chế tạo chưa đáp ứng được yêu cầu, chủ yếu do không có trang
thiết bị và công nghệ chế tạo. Tất cả các loại vật liệu hợp kim titan dùng
trong công nghiệp và y sinh đều phải nhập ngoại với giá thành cao.
Titan và hợp kim của nó
là một trong những nhóm hợp kim khó nóng chảy và là nguyên tố có hoạt tính khá
mạnh khi ở trạng thái lỏng. Ở nhiệt độ cao, titan hòa tan hầu hết các chất khí
trong đó có oxy, nitơ và hydro, nó cũng tác dụng với tất cả các loại oxit, trừ
oxit thori. Cacbon hòa tan nhiều trong titan nhưng khi hạ nhiệt độ sẽ sinh TiC
là pha rắn. Bởi vậy, titan và hợp kim của nó rất khó nấu đúc nên cần phải nấu
luyện trong điều kiện đặc biệt như nấu trong lò chân không, vật liệu làm nồi lò
phải chịu được nhiệt độ cao và không tác dụng với titan. Vật liệu làm khuôn
cũng cần phải có đặc tính tương tự như vật liệu nồi hoặc với trường hợp khuôn
kim loại thì cần được xử lý tốt.
Là đơn vị có nhiều kinh
nghiệm trong ngành đúc - Luyện kim của Việt Nam, Viện Công nghệ đã được Bộ Khoa
học và Công nghệ cho phép thực hiện đề tài cấp nhà nước: “Nghiên cứu chế tạo hợp
kim titan y sinh cấy ghép trong cơ thể người”. Dưới đây là một số kết quả
nghiên cứu:
- Chế tạo được hợp kim
titan y sinh Ti-6A1-7Nb, Ti-5A1-2,5Fe bằng lò cảm ứng chân không VIM02 với chế
độ chân không là 5.10-2 mbar và áp suất cân bằng bởi khí Ar là 700 mbar. Mẫu
sau khi nấu luyện được đem đi phân tích thành phần hóa học và tạp chất khí, cho
kết quả mẫu đạt yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 5832-10 và ISO 5832 -11.
- Quá trình khảo sát nhiệt
luyện chân không hợp kim Ti-6A1-7Nb và Ti-5A1-2,5Fe sau rèn ủ cho thấy sau khi
tôi có tổ chức (α + β), hình dáng của pha α và β có dạng đẳng trục. Độ cứng đạt
lớn nhất là 335 và 346 HV tương đương với hai mác trên khi tôi ở 1.0000C - giữ
nhiệt 1h và mô đun đàn hồi đạt giá trị 97÷106 Mpa, gần với tiêu chuẩn ISO
5832-10.
- Đánh giá khả năng chịu
ăn mòn của các hợp kim Ti-6A1-7Nb và Ti-5A1-2,5Fe trong dung dịch huyết tương
nhân tạo được nghiên cứu bằng các phương pháp điện hóa: đo thế mạch hở - OCP,
đo phân cực anốt và phân cực điện thế tĩnh, đo phân cực I-E, phương pháp thử
nhúng. Kết quả thu được cho thấy 2 loại vật liệu này đều thụ động về hóa học
trong môi trường huyết tương nhân tạo. Đối với thí nghiệm thử nhúng, hàm lượng
kim loại thôi ra dung dịch đều nằm dưới giới hạn cho phép.
- Hai mẫu vật liệu là
Ti-6A1-7Nb và Ti-5A1-2,5Fe được cấy ghép trên động vật (vào mặt bên xương chó 8
tuần) và thử nghiêm độc tính tế bào, tính kháng khuẩn trong phòng thí nghiệm.
Sau 8 tuần, kết quả thu được là: Tại chỗ ghép không thấy nhiễm trùng, viêm, đùn
đầy vật liệu ra ngoài. Mô xương, mô mềm vùng ghép hoàn toàn bình thường so với
vùng xung quanh. Có một màng liên kết mỏng xung quanh vật liệu, không thấy các
tế bào viêm. Xương mới phát triển được quanh vật liệu; Cả 2 loại vật liệu không
làm biến đổi các chỉ số sinh hóa, huyết học, chức năng gan, thận; và cả 2 loại
vật liệu không có khả năng kháng khuẩn và hoàn toàn vô khuẩn sau khi bóc ra từ
túi kín vô trùng.
Như vậy, xét về hiệu quả
khoa học và công nghệ, nghiên cứu đã làm chủ được công nghệ chế tạo hợp kim
titan y sinh mác Ti-6A1-7Nb và Ti-5A1-2,5Fe đạt tiêu chuẩn ISO 5832-10 và ISO
5832 -11; chế tạo mẫu thử nghiệm, đánh giá về khả năng ăn mòn và tương thích
sinh học với kết quả cho thấy vật liệu thụ động hóa học trong môi trường huyết
tương nhân tạo; và chế tạo mẫu thử nghiệm, đánh giá về khả năng tương thích
sinh học. Mẫu được thực hiện cấy ghép lên xương chó. Đánh giá kết quả cho thấy
mẫu vật có tính tương thích sinh học cao.
Về hiệu quả kinh tế xã hội,
đề tài đang trong giai đoạn nghiên cứu, chế tạo các mẫu thử nghiệm, đánh giá khả
năng chịu ăn mòn trong môi trường huyết tương và tương thích sinh học trên động
vật, nên chưa có đánh giá cụ thể về hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số
11376/2015) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.