VASEP đề xuất 11 biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản
Ngày 12/7/2016, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị trực tuyến tại 3 điểm cầu: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng nhằm sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2016 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đến tham dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, đại diện
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Tổng Thư ký Trương
Đình Hòe đã có bài tham luận báo cáo tình hình sản xuất và XK thủy sản 6 tháng
đầu năm và đề xuất các biện pháp đẩy mạnh XK thủy sản Việt Nam.
6 tháng đầu năm XKTS
của cả nước ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó,
XK tôm chiếm tỷ trọng lớn nhất gần 43% với 1,34 tỷ USD, tăng gần 6% so với cùng
kỳ năm ngoái; XK cá tra chiếm 25% với 786 triệu USD, tăng 5,5%,; các loại cá biển
khác chiếm 16% đạt 508 triệu USD, tăng 8%.
Dự báo nguồn cung tôm
và cá tra nguyên liệu sẽ thiếu hụt trong nửa cuối năm do ảnh hưởng thời tiết bất
lợi từ đầu năm. Khai thác thủy sản (cá ngừ và các loại cá biển) cũng khó khăn
vì chi phí cao, công nghệ bảo quản còn chưa cải thiện được nhiều, giá bán không
bù đắp giá vốn cho ngư dân. Tuy nhiên với sự hồi phục nhu cầu thị trường đối với
mặt hàng tôm và cá tra, dự báo tổng XK thủy sản năm 2016 sẽ tăng khoảng 8% đạt
7,1 tỷ USD. Trong đó, XK tôm đạt 3 tỷ USD, tăng 10%, cá tra 1,6 tỷ USD, cá ngừ
500 triệu USD…
Để giải quyết khó
khăn và thúc đẩy XK thủy sản trong thời gian tới, trong bài tham luận, Hiệp hội
VASEP đã đề xuất 11 kiến nghị liên quan đến cải cách thủ tục hành chính theo
theo đúng Nghị quyết 19/2015 và Nghị quyết 19/2016 của Chính phủ và các vấn đề
liên quan đến từng ngành hàng và hoạt động thương mại thủy sản.
Cụ
thể 11 kiến nghị như sau:
1. Một số lĩnh vực và nội
dung trọng tâm kiến nghị tiếp tục cải cách quy định & thủ tục hành chính
bao gồm:
Kiểm soát an
toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu, rà soát- cải cách hơn nữa một số quy định của
Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT của Bộ NNPTNT (về kiểm tra, chứng nhận ATTP TS XK).
Rà soát-cải cách các
quy định kiểm soát nhập khẩu các nguyên liệu-sản phẩm để sản xuất hàng xuất khẩu,
vì một số quy định hiện hành đang bất cập, làm giảm đáng kể cơ hội-nỗ lực-và tốn
chi phí của doanh nghiệp khi nhập khẩu nguyên liệu-hàng hóa-gia vị để sản xuất
hàng xuất khẩu: cụ thể là Thủ tục công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định
ATTP đối với hàng nhập khẩu để SXXK; Quy định về dán nhãn sản phẩm; Quy định về
dán nhãn phụ trên bao bì nguyên liệu nhập khẩu theo Nghị định 89/2006/NĐ-CP của
Chính phủ.
Đề xuất đánh giá xếp
loại DN nhập khẩu để được xét ưu tiên miễn/giảm kiểm dịch:Về quy định kiểm dịch
đối hàng nhập khẩu là nguyên liệu thủy sản để gia công và sản xuất hàng xuất khẩu
cần có cơ chế đánh giá xếp loại DN nhập khẩu để xét ưu tiên miễn kiểm dịch đối
với từng nguyên liệu mà DN thường xuyên nhập khẩu có cùng nguồn gốc xuất xứ và
cùng nhà cung cấp dựa vào KQ kiểm tra và lịch sử của các lô hàng trước đó. Nội
dung này cần đưa vào Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 06/2010/TT-BNNPTNT mà Bộ
NNPTNT đang dự thảo.
2. Đánh giá ảnh hưởng của
xâm ngập mặn ở ĐBSCL: Tiến hành đánh giá ảnh hưởng của xâm nhập
mặn ở ĐBSCL để có các biện pháp nhằm cân đối ba yếu tố thời vụ thả nuôi, sản xuất
giống, sản xuất thức ăn nhằm tránh tình trạng thiếu thừa dẫn đến tăng cao giá
thành sản xuất nguyên liệu, sản lượng thu hoạch và chất lượng nguyên liệu thủy
sản.
3. Sản xuất giống thủy sản: Nhanh
chóng nghiên cứu các biện pháp và có các chiến lược cụ thể đối với sản xuất giống
thủy sản. Cần coi công tác giống là yếu tố then chốt có thể chi phối đến các hoạt
động khác như sản lượng, sử dụng kháng sinh, giá thành. Kiến nghị Chính phủ và
Bộ NNPTNT có kế hoạch tiếp cận và áp dụng thực nghiệm các mô hình nuôi tiên tiến,
hướng đến sản xuất nguyên liệu thủy sản bền vững, giá thành hạ và không kháng
sinh.
4. Chương trình Tôm sạch: Kiến
nghị Chính phủ và Bộ NNPTNT có các chương trình cụ thể nhằm nâng cao nhận thức
về tôm sạch (không kháng sinh) cho người nuôi, nậu vựa, cơ sở sơ chế, nhà máy
chế biến để có nguyên liệu tôm không kháng sinh, không tạp chất. Trong năm
2016, xin kiến nghị Chính phủ và Bộ NNPTNT có đợt rà soát đồng thời về tình
hình lạm dụng kháng sinh, bơm chích tạp chất. Rà soát lại điều kiện vệ sinh và
điều kiện lao động ở các cơ sở thu mua, sơ chế nhằm có các biện pháp bảo đảm an
toàn VSTP cho sản phẩm thủy sản.
5. Ngành cá Tra hội nhập và
vượt rào cản: Thuế CBPG cá tra vào Mỹ vẫn còn cao, Chương
trình thanh tra cá da trơn là những vấn đề rào cản cho ngành cá tra. Mặc dù các
vấn đề này chỉ liên quan đến thị trường Mỹ, nhưng thực tế có tác động rất lớn đến
các thị trường chủ lực của cá tra Việt Nam, đặc biệt là thị trường Châu Âu. Do
đó, xin kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ NNPTNT cùng các Bộ hỗ trợ tối
đa, có các chính sách nhằm huy động nguồn lực để ngành cá tra vượt qua các rào
cản này trong tương lai (Kiện ra WTO, chiến lược giá trị
thay thế, điều kiện tương đồng, quảng bá hình ảnh…).
6. Đầu tư, hỗ trợ công nghệ
đánh bắt xa bờ và bảo quản sau thu hoạch để tăng năng suất và
lợi nhuận cho ngư dân khai thác thủy sản, tận dụng được nguồn nguyên liệu trong
nước để xuất khẩu.
7. Xúc tiến thương mại, quảng
bá thị trường: Thúc đẩy xúc tiến thương mại, quảng bá thị
trường theo tiếp cận liên kết chuỗi, hợp tác công tư (PPP). Kiến nghị Chính phủ
và các Bộ NNPTNT, Công Thương chủ động trong việc dành ngân sách đáng kể và
tham gia chủ trì một số chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.
8. TPP và FTAs: Năm
2016 đến 2018 là thời gian mà hấu hết các Hiệp định thương mại thế hệ mới có hiệu
lực, xin kiến nghị Chính phủ hỗ trợ các Doanh nghiệp qua các chương trình nâng
cao nhận thức về ưu đãi thuế quan đi kèm với quy tắc xuất xứ để giúp các DN có
thể tối đa hóa các ưu đãi mà các Hiệp định mang lại.
9. Tháo gỡ & đầu tư phát
triển về cảng biển-hạ tầng giao thông ở ĐBSCL: Kiến
nghị với Chính phủ: (1) Đầu tư một cảng biển xứng tầm & hiện đại tại khu vực
ĐBSCL để đáp ứng, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu toàn vùng, tiện dụng-giảm chi
phí và nâng cao sức cạnh tranh của DN và toàn vùng ĐBSCL; (2) rà soát, cân đối
và điều chỉnh giảm các trạm thu phí và mức phí cầu-đường ngay trong 2016 để
nuôi sức DN và thúc đẩy giao thương, phát triển của các DN trong vùng khi đa số
vẫn là DN vừa và nhỏ.
10. Xây dựng Tp. Cần Thơ là
Trung tâm Công nghệ sinh học của ĐBSCL: Tiềm năng và lợi thế
của ĐBSCL là nông nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên, để phát triển xứng tầm với tiềm
năng và bền vững thì phải phát triển công nghệ sinh học để lôi kéo & thúc đẩy
các lĩnh vực thế mạnh của vùng được phát huy ở một cung bậc phát triển mới phù
hợp xu thế hiện nay. Qua đó, không chỉ thúc đầy phát triển về sản xuất, về công
nghệ chế biến mà còn nâng cao đời sống người lao động, người dân trong vùng.
Kiến nghị với Chính
phủ xem xét đầu tư có mục tiêu để Cần Thơ trở thành một trung tâm về công nghệ
sinh học của vùng ĐBSCL và của cả nước.
11. Sửa đổi các vướng mắc
trong việc thực hiện Luật Lao động, Luật Bảo hiểm Xã hội, Luật
Việc làm của Quốc hội và quy định về thu phí Công đoàn 2% phù hợp với thông lệ
quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
SXKD của DN.