Chương trình 68 đã mang lại lợi ích cho nhiều doanh nghiệp
Sau 5 năm (2005-2010) thực hiện Chương trình Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (gọi tắt là Chương trình 68) với 3 nội dung chính là nâng cao nhận thức của xã hội, hỗ trợ xác lập bảo hộ và thực thi quyền, khai thác thông tin SHTT (thương mại hóa tài sản trí tuệ), theo ông Nguyễn Quân, Thứ trưởng thường trực Bộ KH&CN, kiêm Trưởng ban chỉ đạo Chương trình, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy vậy còn 2 vấn đề hết sức quan trọng là thực thi quyền và thương mại hóa tài sản trí tuệ chưa triển khai được trên thực tế.
Tia Sáng đã có cuộc trao đổi với ông
Nguyễn Quân về những nguyên nhân và giải pháp khắc phục những hạn chế trên
trong giai đoạn tiếp theo của Chương trình.
Theo ông cho đến nay xã hội và Nhà nước ta đã quan tâm tới
vấn đề Sở hữu trí tuệ (SHTT) như thế nào?
SHTT là một câu chuyện rất
mới đối với Việt Nam. Trước khi chúng ta gia nhập WTO, không chỉ người dân mà
ngay cả các nhà khoa học, các doanh nghiệp Việt Nam cũng không mấy quan tâm đến
(SHTT) vì cho rằng SHTT chỉ thiết thực ở những nước có nền công nghiệp phát
triển. Nhưng khi chúng ta bắt đầu đàm phán để gia nhập WTO, để đáp ứng điều
kiện tiên quyết mà các nước thành viên WTO (đặc biệt là Hoa Kỳ) đặt ra trước
khi chấp nhận một nước thành viên mới là vấn đề tôn trọng quyền SHTT, Việt Nam
đã bắt tay vào việc xây dựng Luật SHTT. Sau một thời gian rất ngắn, năm 2005,
Luật được ban hành và được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo Luật vừa mang
tính khoa học vừa có nhiều qui định tiến bộ. Lần đầu tiên, luật pháp Việt Nam
chính thức công nhận trí tuệ là tài sản, và Nhà nước phải bảo hộ tài sản trí
tuệ của mọi tổ chức cá nhân, trong đó có doanh nghiệp.
Chính sự ra đời của Luật
SHTT là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự bùng nổ về số lượng các hồ
sơ đăng ký xin bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là ở khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, với số lượng đơn xin đăng ký sáng chế của nước ngoài gấp khoảng 10
đến 20 lần so với đơn của người Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước tuy số
lượng đơn đăng ký còn ít so với nước ngoài, nhưng số lượng ngày càng tăng với tốc
độ rất nhanh. Nếu trước năm 2000, hằng năm chúng ta chỉ cấp được vài bằng sáng
chế, thì hiện nay con số đã lên tới hàng trăm. Còn việc cấp chứng nhận nhãn
hiệu hàng hóa, thì hiện nay Cục SHTT đang bị quá tải với khối lượng khoảng
30.000 đơn/năm, không đáp ứng kịp nhu cầu của doanh nghiệp.
Do SHTT có vai trò quan
trọng như vậy nên Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt cho Bộ KH&CN thực hiện
Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp giai đoạn
2005-2010.
Vì sao trước đây Chương trình lại chỉ giới hạn
trong việc hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp?
Hầu hết các doanh nghiệp
trong thời kỳ này chưa có khái niệm và ít quan tâm đến quyền SHTT, đặc biệt là
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu, điều đó ảnh hưởng nhiều đến sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài.
Chính vì thế, Chương trình đã đặt trọng tâm vào việc hỗ trợ cho các doanh
nghiệp.
Có thể nói qua 5 năm thực
hiện, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã được hưởng lợi từ thành quả của chương
trình 68. Chính vì vậy, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình 5
năm 2011-2015, trong đó đối tượng của Chương trình không chỉ là các doanh
nghiệp như giai đoạn trước đây mà sẽ bao gồm mọi thành phần trong xã
hội.
Xin ông cho biết một số kết quả chính đã đạt được của
chương trình 68?
Do nguồn lực và kinh
nghiệm có hạn, nên Ban điều hành Chương trình 68 mới triển khai được 2 nội dung
chính:
1. Nâng cao nhận thức xã
hội, doanh nghiệp về SHTT như đã hợp đồng với các cơ quan truyền thông, nhất là
đài truyền hình Trung ương và địa phương, đã xây dựng chương trình Chắp cánh
thương hiệu trên VTV3 và những chuyên mục về SHTT trên các tờ báo lớn, báo điện
tử. Tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ cán bộ phụ trách về SHTT ở các
Sở Khoa học và Công nghệ, bước đầu đưa chương trình đào tạo về SHTT vào các
trường đại học và cao đẳng.
2. Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và chỉ dẫn địa lý. Về việc này, chúng ta
đã đạt được những kết quả đáng kể. Ví dụ, tại Hội nghị về chỉ dẫn địa lý các
nước ASEAN năm 2009, Việt Nam được đánh giá là quốc gia dẫn đầu với 12 sản phẩm
được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, dù chúng ta là nước đi sau trong lĩnh vực này. Tới
nay Việt Nam đã có 19 sản phẩm đặc sản của các địa phương được hướng dẫn làm hồ
sơ và cấp văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu tập thể, đóng góp lớn cho
sản xuất hàng hóa và xuất khẩu của địa phương. Ví dụ như thanh long Bình Thuận
được thị trường Mỹ chấp nhận. Vải thiều Lục Ngạn, những năm trước tới mùa thu
hoạch, nông dân phải bán đổ bán tháo vì Trung Quốc hạn chế nhập khẩu do chưa có
xuất xứ hàng hóa, gần đây sau khi có văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý, vải thiều
Lục Ngạn đã xuất khẩu được khối lượng lớn, giá tăng 30-40% so với trước đây.
Hoặc như khi chúng ta đã có bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho cam Vinh, giá sản phẩm cam
Vinh trên thị trường đã tăng 25-30%.
Với
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, có thể nói sau 5 năm triển khai chương trình, hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhận thức về sự cần thiết đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu. Hằng năm, số đơn xin đăng ký và số văn bằng được cấp tăng đều với tốc
độ khoảng 20%.
Theo đánh giá của ông, hai nội dung là thực thi quyền và
thương mại hóa tài sản trí tuệ hầu như chưa triển khai được trong thực tế. Vì
sao?
Đối
với thực thi quyền SHTT, Việt Nam hiện đã có Luật SHTT nhưng luật này vẫn chưa
hoàn toàn đồng bộ với các luật khác, nhất là Luật Xử lý vi phạm hành chính và
Luật Hình sự. Ngoài ra Việt Nam còn thiếu các văn bản dưới luật và thiếu các
chế tài để xử lý vi phạm. Năm 2009 chúng ta đã trình sửa đổi bổ sung một số
điều trong Bộ Luật Hình sự, nhờ đó đối với những vụ vi phạm quyền SHTT gây
thiệt hại kinh tế quy mô lớn chúng ta đã có thể xử lý được bằng các biện pháp hình
sự cần thiết. Đây là điều được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Một
khó khăn lớn khác là những người làm việc tại các tòa án, viện kiểm sát, cơ
quan điều tra,…hầu như chưa được đào tạo về lĩnh vực SHTT. Hệ thống giám định1
về SHTT của chúng ta hiện nay còn rất yếu kém, ngoại trừ Viện Khoa học SHTT của
Bộ KH&CN, trong khi chúng ta chưa có một tổ chức ngoài Nhà nước nào làm về
lĩnh vực này.
Chính
vì thiếu các tổ chức và cá nhân đủ điều kiện làm công tác giám định nên các vụ
việc tranh chấp về SHTT không thể xử lý được, cùng lắm chỉ có thể xử phạt hành
chính. Và nếu doanh nghiệp không chấp nhận kết luận xử phạt, muốn khiếu nại thì
cấp tòa án cao hơn cũng không có khả năng xem xét quyết định lại, khiến các
doanh nghiệp – đặc biệt là khối doanh nghiệp nước ngoài – chưa yên tâm với hệ
thống thực thi quyền SHTT của ta.
Mặt
khác doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin về những công nghệ của nước ngoài đã
hết thời gian bảo hộ (hoặc đang được bảo hộ ở nước ngoài nhưng chưa đăng ký bảo
hộ tại Việt Nam) nên hạn chế việc áp dụng vào sản xuất. Hoặc ngược lại, nhiều
khi chúng ta bỏ tiền nhập khẩu cả những công nghệ trong nước đã có sẵn từ kết
quả của những đề tài nghiên cứu cấp Bộ, cấp Nhà nước.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chúng ta rất thiếu hệ thống những tổ
chức trung gian (môi giới, tư vấn, giám định, định giá, kiểm định…) ngoài một
vài tổ chức của Nhà nước tập trung ở các thành phố lớn.
Ông có thể nói cụ thể hơn về những khó khăn trong định giá
tài sản trí tuệ của ta hiện nay?
Việc định giá tài sản SHTT ở nước ngoài thường thông qua các sàn giao dịch, các
sàn đấu giá, nhưng ở nước ta thị trường công nghệ còn rất sơ khai nên chưa có
hình thức này. Vì vậy, nhà nghiên cứu rất khó tìm được người mua để có thể bán
sản phẩm nghiên cứu của mình. Và khi tìm được doanh nghiệp có nhu cầu mua thì
nhà nghiên cứu cũng không tự đánh giá được giá trị tài sản trí tuệ của mình là
bao nhiêu để có thể bán (hoặc góp vốn vào doanh nghiệp). Hệ lụy là nhiều kết
quả nghiên cứu sử dụng ngân sách Nhà nước không định giá được để chuyển giao
cho doanh nghiệp. Trong thực tế, tác giả có đã chuyển giao “chui” công nghệ
thuộc sở hữu của Nhà nước cho doanh nghiệp theo một giá thỏa thuận nào đó thông
qua hợp đồng. Điều này là không hợp pháp, dẫn tới tài sản thuộc sở hữu của Nhà
nước thì bị chiếm dụng.
Vừa
qua, các vấn đề khiếm khuyết về hệ thống định giá và cơ chế chuyển giao quyền sở
hữu tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước đã được đề cập một phần
trong các Nghị định 115/2005/NĐ-CP và Nghị định 80/2007/NĐ-CP, nhưng các nội
dung này vẫn chưa được cụ thể hóa. Khi sửa đổi bổ sung Luật SHTT năm 2009,
chúng ta đã định đưa vào một chương về định giá tài sản trí tuệ, nhưng cuối
cùng chưa làm được vì còn vướng những quy định khác và vấn đề còn quá mới mẻ, phức
tạp…
Vậy trong Chương trình giai đoạn 2010-2015, chúng ta sẽ
triển khai những giải pháp chủ yếu nào để khắc phục những hạn chế của chương
trình trong giai đoạn 2005-2010 ?
Ban
chỉ đạo Chương trình sẽ tập trung vào một số giải pháp chính sau:
1.
Trước hết chúng ta cần tiếp tục công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã
hội về SHTT, đưa nội dung về SHTT vào chương trình đào tạo ở các trường luật,
để đội ngũ những người xây dựng luật và thi hành luật trong lĩnh vực SHTT phải
có kiến thức chuyên môn tối thiểu về SHTT, sớm phối hợp với các cơ quan tư pháp
tổ chức những khóa đào tạo cấp tốc cho đội ngũ thẩm phán trong các tòa dân sự,
hình sự để có thể xử được các vụ tranh chấp về SHTT. Tổ chức bồi dưỡng kiến
thức SHTT cho các cơ quan thực thi quyền (thanh tra, kiểm sát, cảnh sát điều
tra, quản lý thị trường, …)
2.
Đào tạo và xây dựng một hệ thống các tổ chức giám định về SHTT, trong đó có sự
tham gia của các tổ chức xã hội, các hiệp hội để hình thành một hệ thống tổ
chức giám định mạnh. Như vậy mới có cơ sở để xác định tính chất và mức độ các
vi phạm về SHTT, giúp các tòa án xử lý hiệu quả các vụ tranh chấp liên
quan.
3.
Về định giá tài sản SHTT. Vừa qua, Bộ KH&CN đã tổ chức một số hội thảo quốc
tế về vấn đề này, thu hút sự quan tâm của những chuyên gia và tổ chức có kinh
nghiệm trên thế giới như Tổ chức SHTT Thế giới WIPO, Phòng Thương mại châu Âu.
Qua đó, chúng ta đã tiếp cận được về phương pháp luận. Vấn đề còn lại là cần chuẩn
bị mọi mặt về nhân lực, trang thiết bị, và cơ sở dữ liệu để có thể xin phép Nhà
nước cho thành lập cơ quan định giá, tiến tới tổ chức sàn đấu giá tài sản trí
tuệ.
4.
Xây dựng cơ chế giao quyền SHTT có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước cho các tổ
chức và cá nhân để chuyển giao cho doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp
khoa học.
5.
Cục SHTT sẽ thành lập một đơn vị chuyên khai thác kho sáng chế của nước ngoài
để giới thiệu cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận khai thác, đặc biệt là
những công nghệ đã hết thời gian bảo hộ của nước ngoài, hoặc những công nghệ
chưa đăng ký bảo hộ tại Việt Nam; đồng thời giúp các doanh nghiệp tránh được
nguy cơ vi phạm bản quyền mà có khi tiền phạt cao gấp nhiều lần lợi nhuận.
6.
Hình thành các tổ chức trung gian (giám định, định giá, tư vấn, môi giới…)
trong thị trường công nghệ. Bộ KH&CN đang xây dựng đề án về phát triển thị
trường công nghệ. Nếu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì đề án có thể giúp
hình thành mạng lưới các tổ chức trung gian, giúp kết nối nhu cầu doanh nghiệp
với các kết quả nghiên cứu của các Viện, trường.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!