Góp ý quy định về kinh doanh dịch vụ đánh giá, giám định công nghệ
VCCI vừa có góp ý về Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Kinh doanh dịch vụ đánh giá, giám định công nghệ (Phần I)
Theo VCCI, việc Dự thảo đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, trình tự thủ tục hành chính theo hướng: bổ sung phương thức thực hiện thủ tục trên Cổng dịch vụ công trực tuyến; bỏ yêu cầu phải cung cấp giấy tờ mà cơ quan cấp phép có thể tra cứu trong hệ thống cơ sở dữ liệu của Nhà nước. Các đề xuất này là hợp lý, góp phần tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính.
Tuy nhiên, để tạo thuận lợi hơn nữa về việc thực hiện thủ tục hành chính, VCCI đề nghị xem xét thời gian giải quyết thủ tục. Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Nghị định 76/2018/NĐ-CP, thời giản giải quyết thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ đánh giá công nghệ là 10 ngày làm việc tính từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ. Đề nghị cân nhắc rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục (có thể xuống 07 ngày làm việc).
Về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ giám định công nghệ, Điểm c khoản 1 Điều 38 Nghị định 76/2016/NĐ-CP quy định trong hồ sơ phải có “Tài liệu chứng minh năng lực hoạt động giám định đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 36 Nghị định này”. Quy định là chưa đủ rõ ràng về loại tài liệu doanh nghiệp phải cung cấp. Điều này có thể đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau giữa cơ quan giải quyết thủ tục và doanh nghiệp, có nguy cơ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị quy định cụ thể loại tài liệu này trong hồ sơ.
Ảnh minh hoạ
Lĩnh vực cấp phép đăng ký chuyển giao công nghệ (Phần II)
Điểm 1 Phần II Dự thảo đề xuất sửa đổi các nội dung của Mẫu Văn bản đề nghị chấp thuận chuyển giao công nghệ (Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư 02/2018/TT-BKHCN) theo hướng:
Bổ sung thông tin đối với bên giao và bên nhận công nghệ về nội dung “Quyết định thành lập/Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/Giấy chứng nhận đầu tư…. Hoặc Căn cước công dân… (đối với cá nhân)” và sửa cụm từ “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… của Bên đề nghị” thành “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… đối với bên giao, bên nhận công nghệ là tổ chức nước ngoài” tại Mục các văn bản, tài liệu kèm theo văn bản đề nghị.
Với việc bổ sung thêm thông tin về nội dung “Quyết định thành lập/Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/Giấy chứng nhận đầu tư…. Hoặc Căn cước công dân… (đối với cá nhân)” thì yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… đối với bên giao, bên nhận công nghệ là tổ chức nước ngoài” là chưa hợp lý, bởi vì dựa vào các thông tin liên quan đến giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép có thể tra cứu trong hệ thống dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký đầu tư, không cần thiết yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp tài liệu kèm theo. Điều này cũng nhất quán với tinh thần cắt giảm, đơn giản hóa tại Dự thảo, không yêu cầu cung cấp các tài liệu có thể tra cứu trong hệ thống dữ liệu thông tin của cơ quan nhà nước.
Vì vậy, đề nghị bỏ đề xuất “sửa cụm từ “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư…” của bên đề nghị” thành “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… đối với bên giao, bên nhận công nghệ là tổ chức nước ngoài”, đồng thời đề nghị bỏ nội dung “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… của bên đề nghị” tại mục III Mẫu số 01 Phụ lục đính kèm Thông tư 02/2018/TT-BKHCN.
Đối với Thủ tục cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ tại Mẫu số 03 Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 02/2018/TT-BKHCN, đề nghị bỏ “Bản sao Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy phép kinh doanh…) của các bên tham gia chuyển giao công nghệ”; đồng thời bỏ đề nghị “sửa cụm từ “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư”… bản sao hộ chiếu còn thời hạn theo quy định đối với cá nhân là người nước ngoài”;
Đối với Đơn đăng ký chuyển giao công nghệ (Mẫu số 01 Phụ luc ban hành kèm theo Nghị định 76/2018/NĐ-CP), đề nghị bỏ nội dung “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy phép kinh doanh…) của các bên tham gia chuyển giao công nghệ tại Mục IV đồng thời bỏ đề nghị “sửa cụm từ “Bản sao Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư…” thành “Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư… Đối với bên giao, bên nhận công nghệ là tổ chức nước ngoài””.
Lĩnh vực nhập khẩu phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp trong hoạt động sản xuất của dự án đầu tư (Phần V)
Đề nghị bổ sung đề xuất bỏ yêu cầu phải có “Bản sao có chứng thực (hoặc bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu): Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (nếu có)” trong Hồ sơ đề nghị xác nhận hàng hóa sử dụng trực tiếp cho phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 2 Quyết định số 30/2018/QĐ-TTg, để nhất quán với tinh thần cắt giảm, không yêu cầu cung cấp những tài liệu mà cơ quan nhà nước có thể tra cứu thông tin trong cơ sở dữ liệu thông tin của Nhà nước.