Ứng dụng AI chẩn đoán ung thư sớm với tỉ lệ chính xác cao
Chẩn đoán ung thư đại trực tràng (UTĐTT) với những bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm có tỷ lệ bỏ sót khoảng 15%, tuy nhiên khi được ứng dụng AI (trí tuệ nhân tạo) tỷ lệ bỏ sót giảm xuống chỉ còn 1-2%.
Việc phát hiện sớm ung thư có thể tăng tỷ lệ điều trị thành công, và phát hiện sớm u tuyến có thể ngăn ngừa và giảm tỷ lệ mắc UTĐTT. Ứng dụng AI trong chẩn đoán các bệnh lý tiêu hoá cũng là xu thế tất yếu và mang đến những kết quả đột phá, trong đó có UTĐTT.
Theo PGS. TS. BS Tomoaki Matsumura, Bệnh viện Đại học Chiba, Nhật Bản, UTĐTT là bệnh ung thư phổ biến ở mức toàn cầu, đứng thứ 3 trong tổng số các ca ung thư (chiếm 10%) với số lượng mắc mới năm 2020 là gần 2 triệu người, tỷ lệ mắc 19,5/100.000 dân, tỷ lệ tử vong xếp thứ hai. Bệnh lý này đang gia tăng nhanh chóng ở cả các nước công nghiệp và nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tại Việt Nam, UTĐTT là ung thư phổ biến hàng thứ 5 sau ung thư gan, phổi, dạ dày, vú.
GS. TS. BS Đào Văn Long, Chủ tịch Hội đồng sáng lập Viện Nghiên cứu & Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật nhận định, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong khám, chữa bệnh là bước chuyển rất quan trọng của ngành y tế, mang lại nhiều ích lợi to lớn. Hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực y bác sỹ rất khó khăn và mất nhiều thời gian, để có 1 bác sỹ có thể thực hiện nội soi tốt phải mất quãng thời gian khoảng 10 năm.
Với một bác sỹ nội soi mới vào nghề, tỷ lệ bỏ sót khi nội soi có thể lên đến 50%, trong khi những bác sỹ có kinh nghiệm, tỷ lệ bỏ sót là khoảng 15%. Nhưng khi ứng dụng công nghệ AI, tỷ lệ bỏ sót chỉ khoảng 1-2%. “Đấy là một bước tiến rất lớn và mang nhiều ý nghĩa trong ngành y tế, giúp khả năng đồng đều về mức độ chẩn đoán giữa các tuyến được gần nhau hơn”, GS. TS. BS Đào Văn Long nói.
GS. TS. BS Đào Văn Long, đưa ra những định hướng tiếp theo cho việc ứng dụng AI
Cũng theo BS Đào Văn Long chiến lược ứng dụng CNTT của Viện đang có hai bước đi rất trọng tâm. Thứ nhất là ứng dụng các phần mềm AI, và thứ hai là xây dựng các ứng dụng hỗ trợ bệnh nhân và bác sỹ trong điều trị các bệnh lý về tiêu hóa. Trong đó nghiên cứu theo hướng ứng dụng AI trong lĩnh vực tiêu hóa gan, mật sẽ là những trọng tâm của giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế, ứng dụng công nghệ số để hỗ trợ điều trị bệnh nhân, Viện đã xây dựng các ứng dụng (app) trên smartphone.
Tuy nhiên theo các bác sỹ, việc ứng dụng CNTT, đặc biệt là công nghệ AI, tại Việt Nam vẫn gặp những khó khăn liên quan đến chi phí. Với kỹ năng và chuyên môn tốt, các bác sỹ Việt Nam có thể xây dựng phần mềm và phối hợp với các cơ quan khác trong quá trình thực hiện, nhưng phần khó khăn chính nằm ở phần cứng vì đòi hỏi mức độ đầu tư lớn.