Chuyển giao công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
Chuyển giao công nghệ cao trong sản xuất là giải pháp tích cực chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào con người, nhằm nhanh chóng vượt qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn tích lũy, vào nguồn tài nguyên và bằng chính sách cải cách kinh tế thu hút đầu tư. Ðồng thời giảm dần và tiến tới chấm dứt tình trạng lấy nhân công giá rẻ làm lợi thế so sánh cạnh tranh sản xuất hàng hóa.
Cho đến nay, các công nghệ cao được
hình thành và tạo thành các mũi nhọn kinh tế của các quốc gia theo các định
hướng sau:
Công nghệ thông tin (CNTT) là nhân lõi
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về
chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản
phẩm.
Tiếp theo là công nghệ sinh học
(CNSH), bước đột phá vào thế giới đầy bí ẩn của cuộc sống. Chính khoa học hiện
đại bắt đầu bằng nhận thức và khám phá ra gien dưới dạng các phân tử hình xoắn
(DNA), đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho việc sản xuất các sản phẩm phục vụ
nhu cầu của con người từ lương thực, thực phẩm đến thuốc chữa bệnh và các vật
liệu cho công nghiệp. Có nhiều quan niệm và định nghĩa về CNSH khác nhau, GS,
TS Phạm Thị Trân Châu đã viết về quan niệm phổ biến: CNSH là công nghệ sản xuất
các sản phẩm, các thiết bị và cơ thể mới bằng cách khai thác các quá trình sinh
học. Trong nông nghiệp, CNSH đã cải biến di truyền (GMO) một số cây trồng vật
nuôi. Cây trồng GMO có tính chịu cao với các điều kiện môi trường bất lợi ngày
càng khốc liệt do biến đổi khí hậu, do làm thủy điện bừa bãi, như hạn, chua
phèn, nóng, lạnh... Về sản xuất cây trồng GMO trên thế giới, theo nguồn của Bộ
Nông nghiệp Mỹ năm 2012, thì diện tích trồng ngô GMO chiếm 29% tổng số
diện tích ngô trên thế giới, trong đó Mỹ chiếm 86% của 29% trên; tỷ lệ này đối
với đậu tương là 81% và 93%; đối với bông là 64% và 93%.
Nông nghiệp - Công nghệ cao (NN-CNC)
đã trở nên phổ biến trong sản xuất đại trà ở nhiều nước trên thế giới, dẫn đầu
là Mỹ. Xin được giới thiệu thêm về NN-CNC ở một số nước mà chúng tôi có dịp
tham quan, học tập. Ở Ô-xtrây-li-a, trong một nông trại có 6.000 ha trồng lúa
luân canh với cỏ họ đậu, nuôi 6.000 con bò sữa, và trang trại lớn nuôi lợn. Sản
xuất kinh doanh đã được khép kín từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Thế mà chỉ
có mấy người trong gia đình thực hiện NN-CNC, còn gọi là NN-chính xác, NN-thông
minh, vì được áp dụng CNTT với phần mềm cài đặt trước, như tưới nước có hòa
phân bón đúng lúc cũng như đúng với số lượng cây trồng cần; điều khiển máy móc
vận hành bằng remot, kể cả máy bay không người lái phun thuốc sát trùng... Các
khâu khác như làm đất, gieo hạt, gặt đập, vận chuyển..., thì thuê các công ty
qua hợp đồng. Nơi có quy mô diện tích sản xuất lúa ít hơn nhiều, như ở
I-ta-li-a là vài ba trăm ha, ở Nhật Bản là vài ba ha, đều theo kiểu NN-CNC
thích hợp, nên năng suất lao động của họ đều rất cao, thời gian sản xuất một
đơn vị nông sản tính bằng giờ, bằng phút, không bằng nhiều ngày công như ở ta.
Tuy nhiên, ấn tượng nhất đối với chúng tôi là khâu sau thu hoạch lúa ở Malaixia,
do công ty đảm nhiệm hết, nông hộ bán thóc tươi ngay sau khi gặt cho công ty
nào, khi cần gạo ăn, đến công ty ấy mua được giảm giá 40% so với thị trường!
Mục tiêu đề ra đến năm 2020, nước ta
trở thành nước công nghiệp. Thời kỳ này, ta đi sau các nước phát triển, tuy
nhiên, bước vào thời kỳ CNC thời gian sẽ rút ngắn hơn nhiều. Bởi vì ta kế thừa
kinh nghiệm và Nhà nước tạo điều kiện xây dựng đội ngũ khoa học về NN-CNC; Luật
KH&CN đang được thảo luận sửa đổi cho phù hợp giai đoạn mới theo hướng coi
trọng chất xám hơn, đề cao hiệu quả thiết thực, giảm những trở ngại về thủ tục
tài chính phiền hà. Hơn nữa, trong bối cảnh NN đang được công nghiệp hóa ngày
một nhiều nhằm thay thế dần NN truyền thống, đã xuất hiện mô hình CNC. Ngoài
những mô hình CNC trồng rau, hoa, quả trong nhà kính ở Ðà Lạt và ở Viện Nghiên
cứu rau, hoa, quả ở Trâu Quỳ, Hà Nội đã có những mô hình CNC trên đồng lúa rộng
lớn. Tiêu biểu như: San phẳng ruộng lúa điều khiển bằng tia la-de được TS Phan
Hiếu Hiền và cộng sự ở Trường Đại học Nông - Lâm Thủ Ðức cùng Viện Lúa quốc tế
(IRRI) hợp tác với địa phương thử nghiệm trên hàng chục ha ở các tỉnh An Giang,
Bạc Liêu trong khi ở các nước như Nhật Bản, Mỹ, Ôxtrâylia đã đưa vào sản xuất
đại trà. Mặt ruộng lúa phẳng bởi áp dụng công nghệ trên sẽ tiết kiệm được nước
tưới, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, vận hành máy NN dễ dàng hơn, năng suất lúa
tăng. Tuy nhiên, đưa vào sản xuất còn khó khăn, chủ yếu về kinh tế kỹ thuật tựa
như những công nghệ mới khác.
Trừ sâu bằng chế phẩm sinh học nấm
trắng, nấm xanh theo CNC của Viện Lúa ÐBSCL không còn giới hạn trong mô hình
nữa, mà đã sản xuất đại trà ở nhiều địa phương. Nông hộ cũng tự sản xuất được
chế phẩm sinh học để trừ sâu, được hướng dẫn và lấy meo gốc từ cơ quan nghiên
cứu. Tác giả của công trình này, TS Nguyễn Thị Lộc đã đoạt Giải
thưởng Kôvalépxkaia và nhiều giải thưởng quốc tế và quốc gia danh giá khác.
Chuyển giao công nghệ vào sản xuất qua
mô hình là cách làm phù hợp mà Việt Nam có nhiều thành tựu, nhất là về sản xuất
lúa hàng hóa. Năm 2012, lượng gạo xuất khẩu của nước ta có thể lên đến 7,5
triệu tấn. Chuyển giao CNC vào sản xuất NN càng cần theo cách này, tuy mới ở
bước đầu, nhưng đã có nhiều triển vọng tốt đẹp.