Doanh nghiệp KHCN khó thương mại hóa sản phẩm
Thời gian qua, rất nhiều doanh nghiệp KHCN gặp khó trong quá trình thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ mới bởi rào cản từ việc thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn cho các sản phẩm mới, tâm lý e ngại của người tiêu dùng đến việc thiếu nguồn lực tài chính… Bên cạnh các ưu đãi đầu vào cho hoạt động R&D, mong muốn của nhiều doanh nghiệp KHCN là cần sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước để thương mại hóa thành công các sản phẩm KHCN mới.
Những gian hàng tại
Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam 2014
Nhiều rào cản
Theo thông tin từ Cục Phát triển thị
trường và doanh nghiệp KHCN, tính đến tháng 11/2014, cả nước có 132 doanh
nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN và hàng ngàn doanh nghiệp
hoạt động mang bản chất doanh nghiệp KHCN. Trong số các doanh nghiệp KHCN được
cấp Giấy chứng nhận, đa số là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động chủ yếu
trong các lĩnh vực về giống cây trồng, dược liệu, vật liệu mới, công nghệ bảo
vệ môi trường. Trong đó, nhiều doanh nghiệp chú trọng vào việc đầu tư, nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới đưa
ra thị trường. Việc xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
cũng được doanh nghiệp KHCN chú trọng trong việc xây dựng phương án thương mại
hóa các sản phẩm KHCN. Trong bối cảnh khó khăn, nhưng một số doanh nghiệp KHCN
vẫn đạt được doanh thu, lợi nhuận cao từ các sản phẩm KHCN như công ty CP giống
cây trồng Trung ương, Tổng công ty giống cây trồng Thái Bình, công ty BUSADCO…
Tuy nhiên, quá trình
thương mại hóa sản phẩm, nhiều doanh nghiệp KHCN cũng gặp không ít khó khăn.
Trước hết, đó là việc thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn để có thể công nhận một
sản phẩm mới. Phó cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN
Phạm Hồng Quất nêu ví dụ, doanh nghiệp của chúng ta đã sản xuất ra loại gạo
thảo dược, dành riêng cho người tiểu đường. Các nước Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia
đã mua các sản phẩm gạo này và đang tìm cách mua giống để trồng. Giống gạo thảo
dược này được một số viện lúa của nước ta nghiên cứu và chuyển giao cho doanh nghiệp
sản xuất. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để lưu hành sản phẩm mới này chưa có. Thành ra,
một số Sở Khoa học Công nghệ địa phương có ký hợp đồng để bán sản phẩm gạo này
nhưng không hoàn toàn hợp pháp vì không có tiêu chuẩn nào để công nhận. Loại
gạo này có giá bán gấp 5 - 10 lần giá gạo thường, có cơ hội tạo ra việc làm và
nâng cao đời sống của nhiều hộ nông dân nhưng vẫn chưa có cơ chế để có thể
thương mại hóa. Hơn nữa, hiện doanh nghiệp này đang thiếu vốn để tiếp tục
nghiên cứu, chọn tạo nhằm bảo đảm tính ổn định, bền vững của giống lúa;
liên kết với nông dân ở các địa phương xây dựng cánh đồng mẫu lớn chuyên canh
cũng như thiếu vốn để củng cố, hoàn thiện dây chuyền chế biến sản phẩm.
Từ ví dụ này, ông Phạm Hồng Quất rút ra thực trạng, nhiều sản phẩm mới được
phát triển thành công chưa có những quy chuẩn, tiêu chuẩn quy định về chất
lượng. Do đó, cơ quan quản lý Nhà nước gặp lúng túng trong quá trình xem xét,
cấp phép lưu hành; doanh nghiệp khó khăn khi đưa sản phẩm ra thị trường mặc dù
có nhiều đối tác có nhu cầu sẵn sàng hợp tác để thương mại hóa. Việc thiếu các
quy định về đánh giá, công nhận sản phẩm mới khiến cho các kết quả KHCN mới
chậm trễ trong việc đưa ra thị trường, đến khi có quy định điều chỉnh thì tính
cạnh tranh của sản phẩm cũng giảm. Dẫn đến tình trạng hoặc là doanh nghiệp sẽ
không được kinh doanh sản phẩm mới hoặc phải vi phạm pháp luật để kinh doanh
những sản phẩm mới trước khi luật cho phép kinh doanh. Hơn nữa, còn tình trạng
một số cán bộ công vụ chưa thực sự quan tâm thực chất đến việc tạo điều kiện và
hỗ trợ về mặt chính sách cho những người có những sáng kiến, đổi mới sáng tạo.
Để nhận một văn bằng, giấy chứng nhận, có người phải chờ hàng 2, 3 năm, thậm
chí đến hàng chục lần vẫn không giải quyết. Từ đó, ảnh hưởng không nhỏ đến đam
mê sáng tạo của cộng đồng, gây tâm trạng chán nản và nguy cơ thui
chột ngọn lửa sáng tạo trong cộng đồng.
Một khó khăn nữa trong quá
trình thương mại hóa sản phẩm mới của các doanh nghiệp KHCN đến từ tâm lý e
ngại của người tiêu dùng. Thực tế, tâm lý tiêu dùng hàng ngoại phổ biến không
chỉ trong bộ phận dân cư mà ngay cả các cơ quan quản lý nhà nước. Các sản phẩm
KHCN được tạo ra trong nước không được ưu tiên trong việc xét thầu, lựa chọn từ
các dự án đầu tư hoặc dự án mua sắm sử dụng ngân sách Nhà nước, dù đáp ứng chất
lượng, giá cả cạnh tranh hơn so với sản phẩm của các hãng nước ngoài. Ngoài ra,
việc mở rộng thị trường ra nước ngoài đối với các sản phẩm mới cũng rất khó
khăn do trong nước chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn hoặc có nhưng không phù hợp
với chuẩn chung của quốc tế. Một khó khăn nữa là nhiều doanh nghiệp KHCN bị xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ, gây tổn hại đến tài sản, giá trị thương hiệu.
Để sản phẩm mới
đến tay người tiêu dùng
Với vai trò là đòn bẩy
phát triển nền kinh tế tri thức, cộng đồng doanh nghiệp KHCN cần bà đỡ
Nhà nước giúp sức từ giai đoạn nghiên cứu đến sản phẩm và quá trình thương mại
hóa, đưa sản phẩm tiếp cận thị trường và thành lập doanh nghiệp. Các chính sách
hỗ trợ khởi nghiệp của Nhà nước hiện nay mới chỉ tập trung vào giai đoạn đầu
của quá trình khởi nghiệp mà chưa quan tâm đầy đủ đến quá trình tìm kiếm, tiếp
cận thị trường, xây dựng phương án kinh doanh và kêu gọi nhà đầu tư của doanh
nghiệp KHCN. Ngoài việc tiếp cận các chính sách ưu đãi về nguồn vốn, mặt bằng
sản xuất kinh doanh và các nguồn lực cần thiết để thực hiện hoạt động R&D,
mong muốn của nhiều doanh nghiệp KHCN là cần sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý
nhà nước để thương mại hóa thành công các sản phẩm KHCN mới.
Theo ông Phạm Hồng Quất,
cần sớm có các giải pháp liên ngành, đồng bộ từ trung ương đến địa phương,
nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, rào cản trong thương mại hóa các sản phẩm
của doanh nghiệp KHCN hiện nay. Trước hết, hoàn thiện môi trường pháp lý kinh
doanh bảo đảm nguyên tắc tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng và có ưu tiên
đối với những sản phẩm mới của doanh nghiệp Việt. Bên cạnh việc hoàn thiện hệ
thống tiêu chuẩn quốc gia, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn kiểm định lưu hành sản
phẩm thì nên chấp nhận hệ thống tiêu chuẩn quốc tế phổ biến, để sản phẩm KHCN
mới được sản xuất và lưu hành. Đối với những lĩnh vực chưa có quy định điều chỉnh,
cần tham khảo và hợp tác với các tổ chức quốc tế để tạo điều kiện đánh giá sản
phẩm, cho phép lưu hành sản phẩm trong nước, đồng thời tạo điều kiện để xuất
khẩu các sản phẩm KHCN trong nước mà đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Cùng với đó, cần sớm bổ
sung chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KHCN tiếp cận thị trường. Công nghệ, sản
phẩm của doanh nghiệp KHCN khi đã qua kiểm định cần được Nhà nước ưu tiên sử
dụng tại các dự án mua sắm Chính phủ, ưu tiên sử dụng công nghệ trong nước
trong các dự án đầu tư sử dụng ngân sách Nhà nước, giúp doanh nghiệp có nguồn
thu ban đầu, tạo thương hiệu để có niềm tin cho xã hội về sản phẩm KHCN quốc
gia. Đẩy mạnh, hỗ trợ giới thiệu các sản phẩm của doanh nghiệp KHCN đến nhà đầu
tư, người tiêu dùng thông qua các hội chợ, triển lãm. Đặc biệt, với những sản
phẩm KHCN hướng tới đối tượng là những người có thu nhập thấp như nông dân, ngư
dân thì Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ để giúp các sản phẩm này đến
được người tiêu dùng. Các chính sách hỗ trợ bao gồm hỗ trợ kinh phí nghiên cứu
hoàn thiện công nghệ để hạ giá thành sản phẩm, trợ giá, hỗ trợ lãi suất vay vốn
để đổi mới công nghệ.
Để khắc phục tình trạng
nhiều sản phẩm mới không tìm được thị trường, không được thương mại hóa, giải
pháp quan trọng nữa là phải làm sao hình thành chuỗi giá trị hàng hóa các sản
phẩm sáng tạo trong nước, để kết nối các doanh nghiệp sáng tạo và hỗ trợ đầu ra
cho các sản phẩm KHCN. Cũng cần chú ý tăng cường hiệu quả cơ chế bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ để có thể triển khai hiệu quả các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của doanh nghiệp trên thực tế.