Bộ trưởng Nguyễn Quân: WIPO đã đánh giá khách quan
WIPO xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2015 Việt Nam đứng thứ 52/141. Xếp hạng này là đánh giá thực chất sự đổi mới sáng tạo của các nền kinh tế. Nhiều người cho rằng chỉ số này thể hiện trình độ phát triển công nghệ của một quốc gia.
Ngày
22/9/2015, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân đã dành
cho Báo Khoa học và Phát triển cuộc trao đổi xung quanh sự kiện
Việt Nam vừa tăng 19 bậc trong Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu 2015
(GII), về trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất nước và những thách thức
trong đổi mới sáng tạo khoa học và công nghệ của Việt Nam.
Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực đổi mới, sáng tạo
-
Thưa Bộ trưởng, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) vừa công bố Báo cáo Chỉ
số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2015. Theo đó, Việt Nam tăng 19 bậc trên Bảng
xếp hạng GII, đứng thứ 52 (so với vị trí 71 năm 2014 và 76 năm 2013) trên tổng
số 141 nền kinh tế. Báo cáo cũng nêu con số hiệu quả đổi mới sáng tạo Việt Nam
đứng thứ 9 thế giới (năm 2014 chúng ta đứng thứ 5 thế giới, năm 2013 thứ 17 và
năm 2012 thứ 27). Như vậy, năm 2015, dù hiệu quả đổi mới sáng tạo chúng ta giảm
4 bậc, nhưng ở chỉ số xếp hạng chung quan trọng nhất thì chúng ta đã tăng bậc
ngoạn mục. Xin Bộ trưởng cho biết con số này có ý nghĩa như thế nào đối với sự
sáng tạo cũng như phát triển sáng chế, ứng dụng, đổi mới công nghệ ở Việt Nam?
Bộ
trưởng Nguyễn Quân:
-
Có thể nói chỉ số này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đây là đánh giá hết sức
khách quan của WIPO kết hợp với Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh
INSEAD (Pháp).
Để
đưa ra được đánh giá các tổ chức này đã dựa trên số liệu của 79 tiêu chí được
thống kê từ các quốc gia. Cho nên có thể nói xếp hạng này đánh giá thực chất sự
đổi mới sáng tạo của các nền kinh tế. Nhiều người cũng cho rằng chỉ số này thể
hiện trình độ phát triển công nghệ của một quốc gia vì các tiêu chí cũng thể hiện
tương đối tổng hợp.
Trong
số 79 tiêu chí này có nhiều tiêu chí liên quan đến đầu vào, đầu ra của khoa học
và công nghệ, từ thể chế, nhân lực, hạ tầng cho tới đầu tư rồi các sản phẩm
khoa học được công bố cũng như kết quả khoa học được ứng dụng. Như vậy thông
qua chỉ số xếp hạng của WIPO thì có thể thấy năm vừa rồi Việt Nam đã có rất nhiều
nỗ lực để cải thiện thứ hạng của mình.
Rất
nhiều năm trước đây chúng ta vẫn loay hoay ở trong thứ hạng trên 70 nhưng bắt đầu
từ năm 2013 đã bắt đầu có chiều hướng tốt lên. Nếu như năm 2013 chúng ta xếp hạng
thứ 76 thì năm 2014 tăng lên 71 và năm nay là 52.
Nếu
chúng ta tiếp tục đổi mới trong khoa học công nghệ, kể cả đầu tư, đào tạo nguồn
nhân lực, hệ thống quản lý, tiếp cận với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế…
thì thứ hạng của chúng ta sẽ tiếp tục còn tăng lên.
Một
điểm rất quan trọng nữa có thể thấy chỉ số đánh giá này đã ghi nhận sự nỗ lực của
Việt Nam khi chúng ta bắt đầu có Luật KH&CN từ năm 2013. Trên thực tế, Luật
này có hiệu lực từ đầu năm 2014 nhưng thực sự phải đến năm 2015 mới có thể đưa
Luật vào cuộc sống vì toàn bộ năm 2014 chúng ta tập trung vào việc xây dựng các
văn bản hướng dẫn.
Có
thể thấy Luật có tác dụng rất lớn với 3 trụ cột là đổi mới phương thức đầu tư,
cơ chế tài chính và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực KH&CN bước đầu đã đem
lại sức sáng tạo, sức sống mới cho KH&CN Việt Nam. Các nhà khoa học đã đánh
giá Luật có nhiều chuyển biến rất tốt, đặc biệt là các sản phẩm KH&CN phát
triển rất nhanh. Công bố quốc tế năm 2014 của KHCN Việt Nam đã vượt qua ngưỡng
2.600 bài quốc tế trên tạp chí ISI. Số lượng sáng chế cũng tăng lên đáng kể. Số
sản phẩm khoa học của Việt Nam đã có sản phẩm lên vị trí hàng đầu trong khu vực
và tương xứng với trình độ quốc tế.
Có
thể kể ra ở đây như trong lĩnh vực sản xuất văc xin, cơ khí chế tạo với những sản
phẩm thiết bị nâng hạ siêu trường, siêu trọng cho đến những giàn khoan dầu khí
sản xuất cho Việt Nam và xuất khẩu sang Ấn Độ. Nhiều loại sản phẩm khác như tàu
tên lửa tấn công nhanh, tàu trọng tải lớn… Những sản phẩm này đều nhờ vào thành
tựu nghiên cứu làm chủ KH&CN của Việt Nam trong mấy năm qua.
Một
số tạp chí của Việt Nam cũng đã bắt đầu đặt chân vào hệ thống cơ sở dữ liệu uy
tín của thế giới như là Scopus. Chúng ta cũng đang có chương trình toán học, vật
lý từ nay đến năm 2020 hai lĩnh vực này cũng được đầu tư mạnh. Những tạp chí
chuyên ngành của hai lĩnh vực Toán và Vật lý sẽ là những tạp chí đi đầu trong
việc có vị trí trong cơ sở dữ liệu của Scopus và xa hơn nữa là Thomson.
Có
thể nói, thứ hạng thay đổi một cách nhanh chóng và vượt bậc trong năm 2015 là
điều đáng mừng và đáng tự hào của khoa học Việt Nam. Nếu như chúng ta tiếp tục
đổi mới theo đúng tinh thần của Nghị quyết 20 của Trung ương cũng như Luật
KH&CN năm 2013 thì chúng ta có quyền hy vọng sẽ tiếp tục có thứ hạng cao
hơn nữa.
Một
điều rõ ràng là chúng ta có thể nhìn thấy sự tiến bộ của Việt Nam ngày càng rõ
hơn. Nếu như trước năm 2010 theo xếp hạng của WIPO Việt Nam còn đứng thứ 7
trong ASEAN, nhưng rồi chúng ta đã lần lượt vượt qua Philippines, Indonesia
trong năm 2013. Đến năm 2014 chúng ta vượt qua Brunei. Năm nay thì Việt Nam vượt
qua Thái Lan.
Đây
cũng là một trong các mục tiêu mà Chiến lược phát triển KHCN cũng như Nghị quyết
20 của Trung ương đặt ra là đến năm 2020 Việt Nam lọt top các nước dẫn đầu
trong ASEAN. Lúc đó chúng ta đặt mục tiêu chỉ lọt trong top 3, thậm chí còn lo
lắng về mục tiêu này. Tuy nhiên chưa đến năm 2020 nhưng chúng ta đã lọt vào top
3.
Với
kết quả như vậy chúng ta có niềm tin để phấn đấu Việt Nam vẫn trong top 3 nhưng
khoảng cách với nước thứ 2 là Malaysia sẽ được rút ngắn một cách đáng kể. Hiện
nay Malaysia đang xếp thứ 32 (tức là trên Việt Nam khoảng 20 bậc).
Để
rút ngắn khoảng cách này chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu nhưng với tốc độ
như thời gian qua thì đến năm 2020 Việt Nam có thể củng cố được vị trí số 3 của
ASEAN với thứ hạng cao hơn.
Không
tiếp tục đổi mới sẽ đối mặt với khó khăn
-
Theo đánh giá của WIPO, trong các tiểu chỉ số đầu vào của đổi mới sáng tạo có
chỉ số thể chế, chính sách, đổi mới ứng dụng cơ sở hạ tầng cũng như trình độ
phát triển của thị trường… của Việt Nam tăng bậc đáng kể. Tuy nhiên xét trên
bình diện chung ở góc độ đầu ra của đổi mới sáng tạo thì việc ứng dụng đổi mới
công nghệ tại các doanh nghiệp - những đơn vị cấu thành của nền kinh tế - vẫn
chưa được như mong muốn. Ở góc nhìn của mình, Bộ trưởng cho rằng chúng ta cần
phải làm gì để cải thiện nâng cao hiệu quả đổi mới sáng tạo từ chính các cá thể
này?
Bộ
trưởng Nguyễn Quân:
-
Có thể thấy những yếu tố đầu vào đánh giá rất dễ vì được thể hiện thông qua hệ
thống cơ chế chính sách, nguồn lực của xã hội, Chính phủ đầu tư cho KH&CN.
Tuy nhiên các tiểu chỉ số đầu ra thì khó đánh giá hơn vì nó có độ trễ.
Có
thể hiểu rằng ngày hôm nay chúng ta tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế chính
sách nhưng chưa thể thấy ngay kết quả mà còn có độ trễ trong quá trình triển
khai cơ chế chính sách mới. Lộ trình để thấy hiệu quả từ các đầu tư cũng như sự
thay đổi về chính sách phải từ 2 đến 3 năm. Chu kỳ của các nhiệm vụ, đề tài
nghiên cứu KH&CN cũng không thể ngắn hơn 2 hoặc 3 năm được.
Do
vậy phải sau khoảng thời gian này chúng ta mới thấy hiệu quả, tức là lúc này mới
thấy đầu ra của KH&CN Việt Nam có sự tiến bộ. Chính vì thế năm vừa rồi do sự
tăng trưởng mạnh của các yếu tố đầu vào cho nên thứ hạng của chúng ta đã thay đổi
rất đột phá. Nhưng hiệu quả đổi mới sáng tạo lại giảm do là đầu ra chưa có sản
phẩm tương xứng với đầu vào.
Đúng
như nhận định, bên cạnh các sản phẩm KH&CN công bố quốc tế, bằng sáng chế,
kết quả ứng dụng vào sản xuất kinh doanh thì một trong các yếu tố đầu ra rất
quan trọng đó là việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Những
năm vừa qua Chính phủ đã có các chỉ đạo rất đúng như thành lập Chương trình đổi
mới công nghệ quốc gia, thành lập Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia với vốn điều lệ
lên tới 1.000 tỉ đồng - là một quỹ xếp vào diện lớn nhất trong các quỹ của Nhà
nước hiện nay. Mục tiêu thành lập Quỹ là để hỗ trợ cho doanh nghiệp đổi mới
công nghệ tạo ra sản phẩm mới, trước mắt là tập trung cho các doanh nghiệp
KH&CN.
Giả
sử Quỹ này hoạt động từ 2-3 năm trước đây chắc chắn chúng ta sẽ có thứ hạng tốt
hơn. Tuy nhiên thời gian đó Quỹ chưa thể hoạt động được vì còn phải xây dựng hệ
thống văn bản quy định về cơ chế hoạt động cũng như chi tiêu tài chính và chính
thức hoạt động từ năm 2015.
Hiện
Quỹ đang bắt đầu xét duyệt các dự án đầu tiên cho một số doanh nghiệp có nhu cầu
và đi tiên phong trong việc ứng dụng đổi mới công nghệ. Chúng ta có thể hy vọng
1-2 năm mới sẽ có một loạt doanh nghiệp được đổi mới công nghệ nhờ sự hỗ trợ của
nhà nước, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao mang hàm lượng
KH&CN trong đó.
Ngoài
Chương trình đổi mới KH&CN quốc gia và thành lập Quỹ thì việc hỗ trợ cho
các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp còn thông qua nhiều chương
trình khác mà Bộ KH&CN đang triển khai. Ví dụ như Chương trình phát triển Sản
phẩm quốc gia; Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao; Chương trình
nâng cao năng suất chất lượng của hàng hóa doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020;
Chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN; Chương trình nông thôn miền
núi…
Với
tổ hợp nhiều chương trình quốc gia mà Bộ đang triển khai thì chắc chắn doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tiếp cận với công nghệ mới; tiếp cận với
nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước để có thể triển khai các dự án sản xuất ra các sản
phẩm mới trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Với
nhiều hiệp định Việt Nam đã ký kết tham gia như các Hiệp định thương mại tự do
(FTA), FTA Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định Việt Nam - EU; Việt Nam - Bốn nước Bắc
Âu (EFTA); Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định đối
tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)… nếu doanh nghiệp Việt Nam không có
sự chuẩn bị, sẵn sàng đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh thì chắc chắn
sẽ vô cùng khó khăn.
-
Như Bộ trưởng vừa nói, Việt Nam đang hội nhập sâu và trong lĩnh vực KH&CN
Luật KH&CN 2013 đã dành một chương về hội nhập. Đây cũng là bộ luật đầu
tiên của Việt Nam có riêng một chương về hội nhập quốc tế, cho thấy tầm quan trọng
của nó. Vậy, xin Bộ trưởng cho biết để đáp ứng yêu cầu hội nhập Việt Nam đã chuẩn
bị được những gì và đâu là thách thức mà chúng ta cần phải giải quyết trong thời
gian tới, thưa Bộ trưởng?
Bộ
trưởng Nguyễn Quân:
-
Bộ KH&CN xác định hội nhập quốc tế là một tất yếu bởi chúng ta là nước phát
triển sau với trình độ công nghệ rất lạc hậu. Nước ta lại có rất nhiều năm phải
kinh qua chiến tranh nên việc tiếp cận với nền khoa học công nghệ tiên tiến
trên thế giới, học hỏi kế thừa các kết quả nghiên cứu của họ để rút ngắn khoảng
cách là điều hết sức quan trọng. Chính vì thế trong Luật KH&CN cũng như các
chính sách Bộ KH&CN xây dựng trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt đều coi
trọng yếu tố hội nhập quốc tế.
Chúng
ta đã có các hiệp định hợp tác KH&CN với khoảng 70 quốc gia. Trong các năm
qua các đối tác chính của Việt Nam - các quốc gia có trình độ KH&CN phát
triển nhất đã có sự phối hợp, hỗ trợ rất quan trọng đối với sự phát triển của
Việt Nam.
Về
đổi mới KH&CN, thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đương đầu trong giai đoạn
hiện nay và thời gian tới có hai yếu tố quan trọng đó là sở hữu trí tuệ và chất
lượng hàng hóa. Nhất là khi hội nhập, chúng ta tham gia các hiệp định TPP, Hiệp
định thương mại tự do thì sở hữu trí tuệ là khâu vướng mắc nhất trong đàm phán.
Chúng ta rất khó đáp ứng được yêu cầu của các đối tác quốc tế.
Ví
dụ như trong các Hiệp định thương mại tự do và TPP thì chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
hàng hóa luôn là vấn đề nóng. Họ đặt ra yêu cầu bảo hộ rất cao nếu chúng ta trở
thành thành viên của các hiệp định này. Thế nhưng điều kiện của Việt Nam về hạ
tầng, nguồn nhân lực, nhận thức của xã hội… lại đang ở mức rất thấp. Chính vì
thế quá trình đàm phán thường bị tắc.
Chúng
ta mong muốn có thời gian chuyển tiếp để thêm sự chuẩn bị đáp ứng yêu cầu rất
cao của các đối tác, thế nhưng các đối tác – đặc biệt là Hoa Kỳ luôn luôn yêu cầu
phải đáp ứng ngay hoặc có thời gian chuyển tiếp rất ngắn. Họ không muốn có sự bất
bình đẳng trong các thành viên tham gia các hiệp định.
Chúng
ta cũng vẫn đang đàm phán tuy nhiên về phía mình cần phải giữ được khoảng cách
nhất định để các doanh nghiệp Việt Nam tự điều chỉnh đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Một
vấn đề nữa là chất lượng hàng hóa cũng là yếu tố rất đáng quan tâm. Khi Việt
Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thì mở cửa hoàn toàn đối với các thị
trường. Khi đó hàng hóa của các nước sẽ không còn hàng rào thuế quan. Như vậy nếu
chất lượng hàng hóa các sản phẩm của Việt Nam không đủ sức cạnh tranh chắc chắn
doanh nghiệp Việt Nam sẽ thua ngay trên sân nhà.
Vì
vậy doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự nỗ lực và phía nhà nước hỗ trợ cũng có thời
gian rất ngắn. Doanh nghiệp Việt Nam cũng phải hết sức khẩn trương đổi mới công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu những mặt mạnh của thị trường Việt Nam
cũng như mặt yếu của thị trường quốc tế. Từ đó tập trung vào các sản phẩm mũi
nhọn mang tính đặc thù, sản phẩm có đủ sức cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại
trên thị trường quốc tế.
Việt
Nam có thế mạnh về nông nghiệp nhưng thực tế sản phẩm nông nghiệp cũng chưa cạnh
tranh được với các sản phẩm cùng loại ngay trong khu vực chứ chưa nói trên bình
diện quốc tế.
Ví
dụ như gạo chúng ta cũng khó cạnh tranh với Thái Lan, Campuchia và Myanmar. Hay
như các sản phẩm tiêu dùng cũng rất khó cạnh tranh với Thái Lan, Malaysia và
Trung Quốc.
Cho
nên với khoảng thời gian còn lại rất ngắn, nhà nước chắc chắn phải có những đầu
tư thích đáng cả về cơ chế chính sách cũng như nguồn lực. Tuy nhiên doanh nghiệp
phải đóng vai trò chủ yếu, thắt lưng buộc bụng tập trung nguồn lực để đầu tư
cho đổi mới công nghệ, sau đó là đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị trường.
Có như thế thì chúng ta mới có thể hội nhập thuận lợi. Để làm được như vậy vai
trò của KH&CN trong tất cả các vấn đề đều đặc biệt quan trọng.
-
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!