Ngành công nghiệp phụ trợ: Vì sao vẫn mãi "ì ạch"?
Trình độ công nghệ thấp khiến cho các doanh nghiệp trong nước khó có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong việc cung ứng thiết bị, linh kiện đạt chuẩn quốc tế.
80% nguyên vật liệu cho ngành CN phụ trợ đang phải nhập khẩu
30 năm sau quá trình đổi mới và hội nhập, kinh tế TP.HCM đã
có những bước chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. GDP bình quân tăng
9,6%/năm (gấp 1,66 lần so với cả nước).
Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, TP đã tập trung phát
triển 4 ngành công nghiệp trọng yếu có hàm lượng KHCN và giá trị gia tăng cao.
Đó là các ngành: cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa chất - nhựa - cao
su, chế biến lương thực - thực phẩm. Ước tính trong năm 2015, 4 ngành này chiếm
tỷ trọng 60% so với toàn ngành công nghiệp của TP.
Tuy nhiên, theo ông Ông Lê Văn Khoa, Giám đốc Sở Công thương
TP.HCM, dù đã có sự tăng trưởng về lượng, nhưng xét về chất, cấu trúc các ngành
công nghiệp TP phát triển chưa thực sự bền vững và ngày càng bộc lộ những hạn
chế, yếu kém trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Đến thời điểm hiện tại, trên 80% nguyên, vật liệu và
phần lớn thiết bị, công nghệ của chúng ta vẫn phải nhập khẩu. Hoạt động sản
xuất chủ yếu vẫn là phục vụ sửa chữa thay thế và gia công lắp ráp. Trong khi
các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động phần lớn dựa vào kinh nghiệm, năng lực
phát triển và khai thác thị trường, tiếp cận cơ chế chính sách ưu đãi của Nhà nước
còn thấp. Ở chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp của chúng ta vẫn chỉ tham
gia ở những công đoạn có giá trị gia tăng thấp, công nghệ giản đơn thay vì trực
tiếp tham gia vào những công đoạn đòi hỏi hàm lượng chất xám và trình độ công
nghệ cao.
Theo thống kê, hiện TP.HCM có 371 doanh nghiệp trong nước và
261 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào ngành công nghiệp phụ
trợ. Tuy nhiên, phần lớn nguyên liệu, linh phụ kiện cho những doanh nghiệp này
vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Theo ông Lê Hoài Quốc, Trưởng ban quản lý Khu
Công nghệ cao TP.HCM, điều này dẫn tới việc phần lớn giá trị gia tăng thuộc về
các doanh nghiệp FDI và nhà cung ứng nước ngoài. Bởi hầu như nguyên vật liệu để
sản xuất đều từ các nước khác nhập sang, chúng ta chỉ đóng vai trò như một trạm
chung chuyển, đóng gói, gia công trước khi sản phẩm xuất đi các nước khác để
trở thành một phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính vì vậy, dù cho giá trị
xuất khẩu hàng hóa vẫn tăng theo từng năm, nhưng chúng ta chỉ thu được một vài
lợi ích rất nhỏ từ hoạt động sản xuất này, ngoại trừ giải quyết vấn đề việc làm
cho lao động trong nước và học hỏi kinh nghiệm quản lý.
Theo khảo sát của tổ chức Jetro (Nhật Bản), năm 2014, tỷ lệ
nội địa hóa của công ty Nhật tại Việt Nam chỉ đạt khoảng 33,2%. Trong đó, tỷ lệ
nội địa hóa ở miền Nam là 19,1% và ở miền Bắc là 11%. Tuy có tăng qua từng năm
nhưng nhìn chung, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp so với con số 54,8% tại Thái Lan
và 43,1% tại Indonesia.
Có thể nói, kết quả trên tuy chỉ thể hiện tỷ lệ nội địa hóa
của công ty Nhật tại Việt Nam nhưng về cơ bản đã phản ánh đúng thực trạng chung
của ngành.
Những nguyên nhân chính
Phát biểu tại Đại hội Đảng bộ TP.HCM khóa X vừa qua, ông Lê
Văn Khoa cho rằng, có 4 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế của ngành công
nghiệp hỗ trợ TP.HCM.
Nguyên nhân đầu tiên xuất phát từ chính thuộc tính của doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại TP.HCM. Đó là sản xuất phân tán, vốn và tài sản ít nên
khó tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng. Điều này dẫn đến việc chậm đổi
mới công nghệ nên năng suất, chất lượng sản phẩm thấp mà giá thành lại cao.
Hiệu quả kinh doanh thấp kéo theo lợi nhuận thấp, khó tích tụ vốn để tái đầu
tư. Doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào vòng lẩn quẩn của năng lực cạnh tranh thấp.
Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ sự thiếu đồng bộ trong công
tác xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển
công nghiệp hỗ trợ. Thời gian qua, Trung ương và TP đã có nhiều cơ chế, chính
sách phát triển công nghiệp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù các ngành
đã có nhiều nỗ lực nhưng theo ý kiến nhận định của doanh nghiệp, hiệu ứng, tác
động của các cơ chế, chính sách này chưa thực sự hiệu quả bởi phạm vi ưu đãi
quá rộng, mang tính cào bằng và được lồng ghép trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, thủ tục tiếp cận rất nhiêu khê. Bên cạnh đó là thiếu đầu mối quản lý
tập trung và chồng chéo trong chỉ đạo, điều hành. Chưa hình thành các cụm liên
kết ngành gắn với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cũng như thiếu các chương trình
hỗ trợ như đào tạo nhân lực, mặt bằng, công nghệ, thông tin và tiếp cận thị
trường phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp.
Nguyên nhân thứ ba xuất phát từ sự thiếu thông tin. Cả nước
nói chung và TP nói riêng chưa có cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực công nghiệp hỗ
trợ. Do đó, các doanh nghiệp lắp ráp và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ không
có thông tin và không biết về nhau. Mặt khác, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
chưa hiểu đúng và chưa đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng theo yêu cầu của
nhà lắp ráp sản phẩm đầu cuối.
Nguyên nhân thứ tư xuất phát từ chậm đổi mới về công nghệ.
Trong khi các nhà lắp ráp luôn yêu cầu chất lượng cao, với giá thành bằng hoặc
thấp hơn so với nhập khẩu thì chỉ những nhà cung ứng có trình độ công nghệ cao
mới đáp ứng được, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta vẫn chậm đổi mới
công nghệ, dẫn đến chất lượng, khả năng cung ứng thấp và giá thành cao.
Theo kết quả khảo sát, trình độ công nghệ của phần lớn doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ đạt mức trung bình so với khu vực. Do đó, có một khoảng
cách công nghệ rất xa giữa các nhà lắp rắp và các nhà cung ứng nội địa.
Có thể nói, trình độ công nghệ thấp đang là trở lực của
nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp phụ trợ của TP nói riêng
và cả nước nói chung. Do đó, các nhà lắp ráp đầu tư tại Việt Nam nhưng vẫn phải
nhập khẩu linh kiện, phụ kiện từ nước ngoài đồng thời còn kéo theo những nhà
cung ứng cho họ từ chính quốc. Đối với ngành công nghiệp hỗ trợ, tiêu chuẩn
chất lượng sản phẩm là vô cùng quan trọng, bắt buộc các doanh nghiệp tham gia
phải luôn cải tiến công nghệ phù hợp với nhu cầu thị trường, vì thế đã đặt ra
yêu cầu đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đổi mới theo.