Ra đời từ năm 1998, đến nay các khu công nghệ cao ở Hàn Quốc (Technopark) đã gặt hái rất nhiều thành công, trong khi Khu công nghệ cao Hòa Lạc của Việt Nam cũng ra đời cùng thời gian song tiến độ triển khai còn chậm so với kỳ vọng. Vậy kinh nghiệm nào từ Hàn Quốc mà chúng ta cần học hỏi để cải thiện hiệu quả việc triển khai các khu công nghệ cao của mình?
GS
Rhee Jae Hoon, Chủ tịch Hiệp hội các khu CNC Hàn Quốc (KTA). Ảnh: Thanh Nhàn
Những bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát triển
các Technopark đã được GS Rhee Jae Hoon, Chủ tịch Hiệp hội Các khu CNC Hàn Quốc
(KTA), chia sẻ cởi mở với lãnh đạo Bộ KH&CN trong một buổi tọa đàm ngày
11/11 vừa qua, nhân chuyến đi của giáo sư sang Việt Nam để ra mắt cuốn sách Kỷ
nguyên Park Chung Hee và quá trình phát triển thần kỳ của Hàn Quốc mà ông làm
chủ biên.
Qua đó cho thấy, mô hình Technopark dù có một số nét
tương đồng với mô hình các khu công nghệ cao của Việt Nam, nhưng khác biệt rất
rõ ngay trong chủ trương, quan điểm của những người làm chính sách.
Chú trọng hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa
GS Rhee Jae Hoon cho biết, cuối thập niên 1990 trong bối
cảnh Hàn Quốc đang chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế châu Á, Chính
phủ Hàn Quốc nhận ra rằng, để phát triển bền vững một nền kinh tế, không chỉ dựa
vào tập đoàn lớn mà còn rất cần cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhân tố hết sức
năng động, linh hoạt trong việc chớp cơ hội đầu tư hay ứng phó kịp thời trước
những biến động của thương trường. Vì vậy, một trong những lý do quan trọng cho
sự ra đời các Technopark chính là nhằm hỗ trợ hiệu quả cho những doanh nghiệp
nhỏ và vừa này.
Những thành công của sáu Technopark đầu tiên lập tại
Songdo, Daegu, Chungnam, Gyounggi, Gwangju và Daedeok đã khẳng định tính đúng đắn
của chủ trương trên đây, là cơ sở để Chính phủ Hàn Quốc tiếp tục nhân rộng số
lượng Technopark lên gấp ba, rải đều ở các thành phố và đô thị trung tâm trên
phạm vi toàn quốc.
Thực tế cho thấy Technopark đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện các dự án phát triển công nghiệp chính ở các vùng từ năm 2004 đến
năm 2014, đạt tổng vốn đầu tư 1,38 nghìn tỷ won; vượt mục tiêu đề ra 115,9 % về
doanh số, 149,1 % về xuất khẩu và 110,4 % về việc làm. “Theo điều tra trên 94
doanh nghiệp đóng tại 18 Technopark của chúng tôi, mỗi Technopark tuyển dụng
2.000 người, đạt tổng doanh thu 7.835 nghìn tỷ won, tương đương 7,1 tỷ USD [năm
2013]”, GS Rhee Jae Hoon cho biết.
Về nghiên cứu và phát triển, trong 10 năm trở lại đây các
Technopark đóng góp tới 1.792 công trình nghiên cứu đã được đưa vào ứng dụng
trong thực tế, 519 công trình được cấp bằng sáng chế, xuất bản 1.116 bài báo (tỷ
lệ bài báo SCI đạt 21,2%).
Doanh nghiệp được hỗ trợ
gì từ các Technopark?
Theo GS Rhee Jae Hoon, trước khi Technopark ra đời, Hàn
Quốc đã học hỏi tất cả những ưu điểm của các mô hình khu công nghệ cao trên thế
giới như Science Park, Research Park, Technology Innovation Center ở Mỹ, châu
Âu, Nhật Bản. Từ đó họ xác định Technopark cần tập trung vào vấn đề tạo dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị cùng những ưu đãi về chính sách để khuyến khích các
ý tưởng kinh doanh mới, tiền đề để thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
các khu Technopark.
Là một trong những người chứng kiến sự phát triển của
Technopark ngay từ thời điểm đầu, GS Rhee Jae Hoon cho rằng, hai chức năng nổi
bật mà mô hình này đem lại cho các doanh nghiệp Hàn Quốc là trở thành một tổ chức
độc lập trung gian để kết nối các bên liên quan trong mối quan hệ cộng sinh giữa
trường đại học, nhà sản xuất và chính phủ - mối quan hệ ba nhà là kinh nghiệm
Việt Nam lâu nay đã học hỏi nhưng chưa thực hiện thành công - cũng như nơi tư vấn
liên quan đến các chính sách, dịch vụ công của các bộ, ngành.
Cũng giống như ở Việt Nam, việc kết nối ba nhà ở Hàn Quốc
diễn ra hết sức khó khăn. Trên lý thuyết, cơ chế vận hành của mối quan hệ ba nhà
không có gì phức tạp (nhà nghiên cứu cung cấp kết quả nghiên cứu, doanh nghiệp
tiếp nhận và thương mại hóa, Nhà nước cung cấp các chính sách ưu đãi về vốn,
thuế) nhưng trong thực tế, ba bên nhiều khi không tìm thấy tiếng nói chung để hợp
tác. “Các trường đại học chỉ hoạt động dựa trên lợi ích của mình, còn doanh
nghiệp lúc nào cũng nghĩ phải nhận được những khoản viện trợ, hỗ trợ từ chính
phủ, trong khi chính phủ chỉ đưa ra những quy chế về chính sách mà không hướng
dẫn/thực hiện đến nơi đến chốn”, GS Rhee Jae Hoon nói. Chính vì vậy, ở đây cần
có vai trò của Technopark với tư cách là một cơ quan độc lập có chức năng điều
phối thông tin, tạo cầu nối ý tưởng giữa ba bên, giúp họ kịp thời thấu hiểu lẫn
nhau và đem lại cơ hội hợp tác các bên cùng có lợi.
Chức năng nổi bật thứ hai mà Technopark có được là thực
hiện dịch vụ tư vấn, hỗ trợ một điểm dừng (one stop) cho doanh nghiệp. Thông
qua đó, doanh nghiệp được nhanh chóng tư vấn hoặc hỗ trợ mọi điều kiện cần thiết,
từ hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc phục vụ R&D, nơi hỗ trợ
đào tạo, huấn luyện kiến thức kinh doanh, makerting…, cho tới các cơ chế, chính
sách quy định của Nhà nước, đặc biệt là các gói hỗ trợ của Chính phủ mà doanh
nghiệp cần biết.
“Ở Hàn Quốc, các bộ ban ngành như Bộ KH&CN, Bộ Công
nghiệp và Thương mại… và các đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp khác cũng có nhiều dịch
vụ công và có chức năng tư vấn tương tự cho doanh nghiệp, nhưng trên thực tế,
các doanh nghiệp tư nhân hầu như biết rất ít đến các dịch vụ này”, theo GS Rhee
Jae Hoon. Với cơ chế hỗ trợ một điểm dừng, Technopark đã đưa “tất cả các dịch vụ
này tập trung lại trên một con đường”, và đóng vai trò như một “translator”,
giúp nhiều doanh nghiệp từ chỗ còn là “tay mơ” sau khi bước chân ra khỏi
Technopark đã trở thành những người đầy am hiểu và tự tin – những “iron man”,
như cách ví von của GS Rhee Jae Hoon.
Technopark thụ hưởng những
chính sách gì từ Chính phủ Hàn Quốc?
Chính phủ Hàn Quốc không can thiệp một cách trực tiếp vào
quá trình hình thành, quản lý, điều hành của các Technopark mà chỉ hoạch định
các vùng được chỉ định, sau đó mỗi vùng tự chủ động lựa chọn vị trí cụ thể cho
khu của mình. Chính phủ chỉ tạo những điều kiện thuận lợi nhất để các
Technopark tự phát huy năng lực, sức sáng tạo của mỗi khu, thậm chí còn khuyến
khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Technopark với nhau.
Thông qua các tổ chức phát triển vùng, Chính phủ đã đầu
tư, hỗ trợ cho Technopark bằng các dự án, ngân sách đầu tư vùng. Trong kế hoạch
năm năm đầu tiên (1999 - 2002), mỗi năm Chính phủ Hàn Quốc đều dành một khoản
ngân sách để đầu tư trực tiếp vào các Technopark, theo đó mỗi khu nhận được 5
triệu USD. Số tiền này được các Technopark đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nâng cấp
các dịch vụ và hỗ trợ vốn vay cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, luật bảo hộ dành
riêng cho Technopark cũng được ban hành với nhiều ưu đãi về chính sách đất đai,
thuế, v.v. Luật bảo hộ này có hiệu lực trong vòng 20 năm, từ năm 2007 đến năm
2027, đủ dài để có thể tạo tác động rõ rệt lên các ngành công nghiệp và nền
kinh tế.