Phát triển được công nghệ nền của công nghệ sinh học
"Mặc dù kinh phí cho mỗi đề tài, dự án không nhiều nhưng những kết quả Chương trình Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học đã đạt được rất lớn".
Thứ
trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc đánh giá cao những kết quả cũng như đóng góp
của Chương trình
Đó là nhận định của Thứ
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc tại Hội nghị tổng kết
Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng
công nghệ sinh học” giai đoạn 2011 – 2015, mã số KC.04/11-15 diễn ra mới đây tại
Hà Nội.
Báo cáo tại hội nghị tổng
kết, GS.TS. Trương Nam Hải cho biết, Chương trình gồm 23 đề tài, 3 dự án sản xuất
thử nghiệm, 10 đề tài tiềm năng, không có nhiệm vụ nào dừng thực hiện. 96,2%
các đề tài, dự án đã công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành;
42,3% các đề tài, dự án có bài báo công bố trên các tạp chí uy tín quốc tế;
61,5% kết quả của đề tài, dự án được chấp nhận đơn yêu cầu bảo hộ sở hữu công
nghiệp (dự kiến 60%); 3,8% kết quả của đề tài, dự án đã được công nhận sáng chế
hoặc giải pháp hữu ích (dự kiến 15%).
Chương trình đặt mục tiêu
phát triển được các công nghệ nền của công nghệ sinh học (ưu tiên công nghệ
gen, enzym-protein) trong nghiên cứu phát triển công nghệ và ứng dụng đối với
các lĩnh vực: y tế, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường, an
ninh quốc phòng; tạo được quy trình công nghệ, vật liệu, sản phẩm trên nền công
nghệ hiện đại phục vụ cho y tế, nông nghiệp, công nghiệp và an ninh quốc phòng;
tạo được một số công nghệ có triển vọng ứng dụng cao và một số nhóm nghiên cứu
trẻ có năng lực nghiên cứu mạnh trên cơ sở kết quả thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu KH&CN tiềm năng.
Sau 5 năm triển khai thực
hiện, Chương trình đã đã bám sát nhiệm vụ “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng
công nghệ sinh học”, cùng với các Bộ, ngành liên quan xây dựng được những đề
tài nghiên cứu phát triển các công nghệ gen, enzym - protein, tạo được quy
trình công nghệ, vật liệu, sản phẩm trên nền công nghệ hiện đại phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Các sản phẩm của Chương trình gồm 5 nhóm chính: quy
trình công nghệ, sản phẩm ứng dụng, sản phẩm về công nghệ protein, sản phẩm về
công nghệ vi sinh vật, sản phẩm về công nghệ tế bào.
|
Lãnh đạo Bộ KH&CN, Ban Chủ nhiệm Chương
trình và các đại biểu chụp ảnh lưu niệm
|
Chương trình đã thúc đẩy
các đơn vị nghiên cứu, nhà khoa học làm chủ, vận dụng sáng tạo các công nghệ nền.
Các nội dung nghiên cứu, chỉ tiêu và sản phẩm dự kiến đều hoàn thành và vượt
đáp ứng đầy đủ mục tiêu Chương trình đã đưa ra. Hỗ trợ rất hiệu quả công tác
đào tạo chất lượng cao, đào tạo trình độ sau đại học, đào tạo chuyên môn cho đội
ngũ nghiên cứu. Đồng thời, giúp các nhà khoa học tạo ra những sản phẩm đạt được
một số tiêu chuẩn khoa học ngang tầm khu vực và quốc tế, làm chủ qui trình công
nghệ, góp phần chủ động sản xuất, giảm giá thành. Nhiều sản phẩm đã có tác dụng
tích cực đối với xử lý ô nhiễm môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng cây
trồng vật nuôi, nâng cao chất lượng xét nghiệm, chất lượng sống của người dân.
Các đề tài, dự án của
chương trình đã tiếp cận, thử nghiệm một số công nghệ có triển vọng ứng dụng
cao, có khả năng tích hợp với các công nghệ liên ngành (nano, điện tử, vật liệu
mới). Đây là ưu thế đặc thù của KC.04 hỗ trợ nghiên cứu cơ bản, nâng cao chuyên
môn để có thể tiếp nhận làm chủ được công nghệ sản xuất ở qui mô doanh nghiệp,
công nghiệp.
Một số sản phẩm tiêu biểu,
mang tính ứng dụng cao có thể kể đến như bộ giống khoai tây đạt tiêu chuẩn 10
TCN 316-2003 đã chuyển giao cho nhiều công ty tại Thái Bình, Lào Cai, Phú Thọ,
Bắc Giang,… và Bộ KH&CN Indonesia; bộ chủng giống vi sinh vật để sản xuất
phân bón được phép kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam. Công nghệ sản xuất phân
bón chuyển giao cho Công ty cổ phần Hóa chất Vinh (tổng trị giá 102 tỷ đồng) để
xây dựng nhà máy sản xuất phân bón vi sinh đa chủng đa chức năng, công suất
10.500 tấn/năm; protein tái tổ hợp IL-2 lần đầu tiên được sản xuất qui mô công
nghiệp, thuốc hỗ trợ điều trị bệnh ung thư tại Công ty Vacxin và Sinh phẩm số
1; nhiều loại vacxin phòng các bệnh virus cho chăn nuôi, thủy sản đảm bảo hiệu
lực gây đáp ứng miễn dịch tốt: Vacxin phòng bệnh hoại tử thần kinh cho cá (đạt
độ vô trùng 100%, độ an toàn 100%) đã được sử dụng ở qui mô cá nuôi công nghiệp
với tỷ lệ bảo hộ trên 70% ở Hải Phòng, Thừa Thiên Huế; các bộ kit phục vụ điều
trị đích đối với ung thư phổi, đại trực tràng, ung thư máu, chẩn đoán phôi tiền
làm tổ, chẩn đoán bệnh liên quan ty thể đạt được độ nhạy, độ chính xác tương
đương các kit nhập ngoại. Điều này cho phép bệnh nhân được tiếp cận với các
phương pháp điều trị chất lượng cao với chi phí phù hợp; các bộ kit phát triển
dấu chuẩn thế hệ mới hỗ trợ chẩn đoán ung thư tuyến liền liệt đảm bảo độ nhạy,
độ đặc hiệu nhưng có giá thành tạm tính chỉ bằng 1/2 của bộ kit nhập ngoại;...
Tại hội thảo, bên cạnh việc
chia sẻ những thành tựu đạt được, những thuận lợi, khó khăn khi triển khai
Chương trình, các đại biểu cũng đưa ra nhiều giải pháp, kiến nghị. Theo đó, cần
duy trì mô hình hoạt động theo chương trình, bởi đây là cách hiệu quả để tập hợp
các nhiệm vụ theo hướng giải quyết tổng thể các vấn đề, mục tiêu của thực tiễn,
tránh tình trạng manh mún, thiếu liên kết giữa các đề tài, dự án; việc xem xét
tuyển chọn các tổ chức, cá nhân chủ trì cần dựa trên một số tiêu chí như: kinh
nghiệm khoa học và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu, năng lực về cơ sở vật chất
và trang thiết bị của cơ quan chủ trì, khả năng hợp tác với các đối tác trong
và ngoài nước,…
www.truyenthongkhoahoc.vn(lntrang)