Theo nhiều chuyên gia kinh tế, để phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phải tập trung đẩy mạnh đầu tư ứng dụng KH&CN.
Theo nghiên cứu của Viện
Quản lý kinh tế Trung ương, việc nhập khẩu công nghệ hàng năm của DN Việt Nam
chỉ đạt dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu và chỉ bằng 1/4 của các nước phát
triển. Nhưng đáng chú ý, có tới 76% máy móc dây chuyền công nghệ nhập khẩu lại
thuộc thế hệ những năm 1950-1960. Tính chung, chỉ có 10% DN Việt Nam sử dụng
công nghệ hiện đại nằm trong nhóm khai thác dầu khí, hóa chất, điện lực.
Trong các ngành công
nghiệp, mức độ lạc hậu của công nghệ ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Các DN áp
dụng tự động hóa chỉ chiếm 1,9%, bán tự động là 19,6% và còn lại là cơ khí hóa
và thủ công. Nếu so sánh với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) thì tỷ lệ nhóm ngành sử dụng công nghệ cao của Việt Nam chưa đạt
tới 20%, trong đó tỷ lệ này của Thái Lan là 31%, Malaixia 51% và Singapo là
73%.
Nhìn chung, đầu tư
cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của Việt Nam rất thấp so với yêu cầu phát
triển nền kinh tế và nhịp độ tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời
gian gần đây. Trong vòng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ ngân sách chi cho hoạt động
khoa học công nghệ chiếm 2% tổng chi ngân sách cả nước hàng năm, nhưng chủ yếu
là chi xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp. Mức chi này của Việt Nam là tương
đương 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước: Trung Quốc 1,8%, Cộng hòa Liên
bang Đức 3%, Mỹ 3,5%…
Nguyên nhân của tình
trạng này, do ngân sách nhà nước còn hạn chế, các DN chưa huy động được các
nguồn vốn khác trong xã hội, trong khi việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang
thiết bị đòi hỏi lượng vốn lớn, điều mà không phải DN nào cũng có khả năng đáp
ứng. Bên cạnh đó, cơ chế hiện nay lấy tình hình lỗ lãi hằng năm của DN làm
thước đo hiệu quả khiến họ ngại xây dựng chiến lược đổi mới công nghệ. Ngoài ra,
chúng ta còn thiếu các trung tâm nghiên cứu, phát triển sản phẩm, đặc biệt là
sản phẩm công nghệ cao. Đồng thời, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
cũng là một vấn đề nan giải trong quá trình phát triển của Việt Nam đã hạn chế
năng lực tiếp thu và chuyển giao các tiến bộ KH&CN. Nguồn lao động
KH&CN trong các DN Việt Nam
hiện chỉ chiếm 7,25% lực lượng lao động.
Mặt khác, việc
thương mại hóa các sản phẩm công nghệ còn khiêm tốn. Muốn có công nghệ mới cần
phải có đầu tư và tạo lập liên kết với các trường đại học. Việt Nam hầu như
chưa xuất khẩu công nghệ nào có giá trị ra nước ngoài. Năng lực cạnh tranh của
các DN vì thếyếu. Mặc dù Chính phủ có chính sách kích cầu, nhưng thị trường
KH&CN nội địa vẫn bị hàng hóa Trung Quốc và các nước ASEAN chi phối. Các DN
Việt Nam
rất khó để trở thành nhà sản xuất thiết bị gốc hoặc tạo ra các thương hiệu sản
phẩm mới.
Theo PGS.TS Trần Văn Tùng, Viện Nghiên cứu châu
Phi và Trung Đông (IAMES), Việt Nam cần có chiến lược đổi mới quốc gia về công
nghệ và phát triển thị trường công nghệ đúng nghĩa là một thị trường như tăng
cường các hoạt động môi giới công nghệ, tổ chức các chợ công nghệ, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, phổ biến rộng rãi thông tin về công nghệ… để từ những nghiên
cứu cơ bản có thể chuyển giao nhanh sang DN tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống xã
hội. Các DN cũng cần phải nỗ lực trong hoạt động nghiên cứu và phát triển
(R&D) và quan tâm nhiều hơn tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chỉ bằng cách đó, các công ty mới có đủ điều kiện tham gia vào mạng lưới sản
xuất khu vực, toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình.