Đổi mới cơ chế tài chính trong khoa học: Hai giải pháp cơ bản
Sự trì trệ của nền khoa học Việt Nam trong suốt một thời gian dài có phần bắt nguồn từ những bất cập trong quản lý tài chính. Đây vẫn là một trong những tồn tại dai dẳng mà các nhà quản lý chưa giải quyết được triệt để.
Vấn đề đổi mới trong cơ chế xét duyệt
đề tài và thực hiện khoán kinh phí đã được Hội đồng Chính sách Khoa học Công
nghệ Quốc gia đưa ra trong buổi tọa đàm về chính sách tài chính trong KHCN như
hai giải pháp cơ bản nhằm góp phần tháo gỡ những vướng mắc trên.
Ít ỏi và rót nhầm chỗ
Tài chính cho hoạt động KHCN, trên lý
thuyết đến từ 3 nguồn: Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp. Thống kê cho thấy,
tổng đầu tư của 3 nguồn này cho hoạt động nghiên cứu chỉ chiếm chưa đến 1% trên
tổng GDP (trong đó từ ngân sách nhà nước là khoảng 0,5% - so với Trung Quốc và
Hàn Quốc lần lượt là 2,2% và 4,5% - còn lại đến từ xã hội và doanh nghiệp-cho
thấy vai trò mờ nhạt của hai nguồn này).
Tuy nhiên, điều đáng nói là con số 1%
không những ít ỏi mà còn bị sử dụng kém hiệu quả, do việc Nhà nước vừa là người
xét duyệt vừa là người cấp phát dẫn đến tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi. Hệ
quả tiêu cực không tránh khỏi là cơ chế xin cho, trong đó nguy cơ các mối quan
hệ cá nhân tác động tới quyết định cấp phát là rất cao.
Hiện nay khi có nhiều quĩ mới sắp đi vào hoạt
động với vốn điều lệ vô cùng lớn, nếu vẫn duy trì cơ chế “vừa đá bóng vừa thổi
còi” thì thất thoát trong việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu là khó tránh
khỏi. Bản chất của nghiên cứu khoa học đòi hỏi sự chính xác và minh bạch, trong
khi nguồn chi và cách chi lại không rạch ròi là điều không thể chấp nhận.
Ngoài khó khăn về nguồn cung là việc
giải ngân nguồn tiền ngân sách Nhà nước gắn liền với những quy định cứng nhắc
đòi hỏi tổ chức phải đệ trình dự toán chi tiết kinh phí đề tài. Điều này không
phù hợp với thực tế là quá trình nghiên cứu thường kéo dài vài năm (nhất là với
những nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp) và đòi hỏi không ít điều chỉnh so
với kế hoạch. Như vậy, ngân sách cố định ban đầu phải cắt xén, co kéo để chi cho
nhiều hạng mục phát sinh trong thời buổi lạm phát tất yếu sẽ tạo ra những sản
phẩm dở dang. Ông Trương Hữu Trí, Viện trưởng Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp
Việt Nam, cho rằng nguồn kinh phí cho công tác nghiên cứu thực chất chảy vào bộ
máy hành chính hơn là phân bổ trực tiếp cho những đề tài mới, gây hậu quả là
các công trình nghiên cứu không những bị hạn chế về số lượng mà còn yếu kém về
chất lượng.
Ngoài ra, việc cấp ngân sách còn mang
nặng tính hình thức theo kiểu đem con bỏ chợ, cho rằng ngân sách cứ rót xuống
là xong mà không quan tâm kết quả đầu ra thế nào. Từ đó xuất hiện tình trạng để
đạt được một mục tiêu khoa học đặt ra có rất nhiều đề tài nối đuôi ra đời. Đề
tài sau hoặc không tận dụng được kết quả nghiên cứu của đề tài trước, hoặc giẫm
chân lên những công đoạn đã được thực hiện, gây lãng phí không chỉ tiền bạc mà
còn cả công sức lao động. Theo ông Trương Quang Học (Đại học Quốc gia Hà Nội),
tình trạng này giống như việc “đun nước”, đun đi đun lại nước chỉ lục bục mà
vẫn chưa sôi.
Ông Nguyễn Minh Hồng, Thứ trưởng Bộ
Thông tin Truyền thông, cho biết việc cho phép chủ nhiệm đề tài quyết định chi
lương đã dẫn đến tình trạng chủ nhiệm lạm dụng “ôm” phần lớn công trình, khiến
các thành viên khác ngồi không trong tình trạng thiếu thu nhập. Một điều được
tọa đàm đặc biệt nhấn mạnh là đồng lương ít ỏi theo biên chế không đủ sống
khiến nhiều cán bộ bỏ nghề hoặc không nhiệt huyết công tác. Thực tế trên khiến nhiều
người đặt ra câu hỏi tại sao trong ngân sách cấp cho từng đề tài không tính đến
mức tiền công lao động phù hợp của các nghiên cứu viên (trong khi điều này đã
được thực hiện rất lâu ở trong khu vực và trên thế giới). Đó cũng là một trong
những nguyên nhân làm triệt tiêu động lực của các nhà nghiên cứu.
Đổi mới xét duyệt đề tài
Những bất cập trong cơ chế quản lý và
sử dụng tài chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng nền
khoa học Việt Nam
vẫn ỳ trệ với vô số những kết quả nghiên cứu nửa vời. Vì vậy, các thành viên
tham gia tọa đàm đều chung quan điểm cần có sự đổi mới triệt để một cách toàn diện
có đồng bộ từ cấp quản lý nhà nước, bắt đầu là khâu quản lý xây dựng đề tài.
Theo ông Trương Quang Học, hiện nay
các nhiệm vụ khoa học thường xuất phát từ ý muốn chủ quan của những nhà khoa
học mà không đi từ nhu cầu thực tế của đời sống. Với những kết quả nghiên cứu
ít giá trị từ những công trình như vậy, nguồn tài chính dù có dồi dào đến mấy,
sử dụng có hợp lí đến mấy, cũng không thể coi là đã phục vụ hiệu quả cho công
tác nghiên cứu. Vì vậy cần có sự tăng cường sự bắt tay chặt chẽ giữa các nhà
khoa học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp sản xuất, để từ đó các nhà khoa học
tự xác định được các đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng cao trong đời sống hằng
ngày, bên cạnh những nhiệm vụ lớn, mang tầm quốc gia do nhà nước giao xuống cơ
sở.
Ngoài ra, khâu tiến hành lựa chọn đề
tài cũng cần nghiêm túc và minh bạch. Điều này thực sự khó khăn bởi hiện nay,
việc lựa chọn đề tài ở Việt Nam
thường được tiến hành bởi các hội đồng khoa học không thực sự đảm bảo về chất
lượng chuyên môn cũng như tính khách quan trong đánh giá.
Trông chờ cơ chế khoán
Cơ chế “khoán” được đa số đại biểu nêu
ra như một bước đi căn bản trong việc cải thiện hoạt động tài chính cho các tổ
chức nghiên cứu. Lập luận cho rằng sản phẩm đầu ra cuối cùng là quan trọng
nhất, là thước đo cho hiệu quả của công trình khoa học, nên có thể lược bỏ bớt
những khâu trung gian nhằm tiết kiệm thời gian và công sức nhận được nhiều sự
ủng hộ. Việc đơn giản hóa này sẽ khiến các thủ tục hành chính như hóa đơn, xin
xác nhận… ở khâu thanh quyết toán vốn khiến nhiều nhà khoa học không thể tập
trung toàn bộ cho công tác chuyên môn, được loại bỏ. Cơ chế khoán nêu trên cũng
là công cụ giúp các nhà nghiên cứu lập dự phòng tài chính cho đề tài của mình
để đối phó với trượt giá. Mặt khác, nó cũng góp phần đưa dự chi thù lao phù hợp
cho cán bộ nghiên cứu vào ngân sách, phần nào giảm nhẹ gánh nặng về áp lực thu
nhập.
Tuy nhiên, để đảm bảo cơ chế khoán
hoạt động hiệu quả không hề dễ dàng. Nó đòi hỏi khâu quản lý kết quả sản phẩm
đầu ra vô cùng nghiêm ngặt. Nếu không, vô hình trung lại trở thành lãng phí và
bị lợi dụng, trong bối cảnh cơ chế nghiệm thu phản biện khoa học ở Việt Nam bị không ít
những phê phán những năm gần đây.
Mặc dù vậy, về cơ bản các đại biểu đều đồng tình là
cần thực hiện khoán, trước tiên là thí điểm, nếu mô hình thành công thì sẽ nhân
rộng. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận là nên khoán theo hình thức nào -
khoán trắng hay khoán theo tỉ lệ - và nếu khoán cho cán bộ nghiên cứu nhưng kết
quả không hoàn thành thì có phải hoàn thu phần nào không, nếu có thì thế nào
v.v.Các đại biểu cũng cho rằng cần phải tách bạch giữa quản lý chính sách và
tài chính để tránh tình trạng xin-cho. Hiện nay khi có nhiều quĩ mới sắp đi vào
hoạt động với vốn điều lệ vô cùng lớn, nếu vẫn duy trì cơ chế “vừa đá bóng vừa
thổi còi” thì thất thoát trong việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu là khó
tránh khỏi. Bản chất của nghiên cứu khoa học đòi hỏi sự chính xác và minh bạch,
trong khi nguồn chi và cách chi lại không rạch ròi là điều không thể chấp nhận.