Khối bất thường nhĩ phải: huyết khối hay u tim?
Nghiên cứu do tác giả Dương Đức Hùng - Đơn vị Phẫu thuật Tim mạch - Viện Tim mạch Việt Nam – Bệnh viện Bạch Mai thực hiện.
Ảnh minh họa.
Chẩn đoán phân biệt của khối bất thường trong tim bao gồm: huyết khối, u tim. Kích thước, hình dạng, vị trí, tính di động, mật độ kết hợp với các triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán phân biệt các nguyên nhân. Siêu âm tim qua thành ngực và đặc biệt là siêu âm qua thực quản trở thành tiêu chuẩn để chẩn đoán các khối bất thường trong tim. Chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ tim cũng là một phương tiện để chẩn đoán với độ chính xác cao. Chẩn đoán chính xác nguyên nhân đóng vai trò quan trọng trong lựa chọn giải pháp điều trị thích hợp và tiên lượng bệnh nhân. Báo cáo một trường hợp có khối bất thường nhĩ phải nhằm thảo luận các chẩn đoán có thể xảy ra trên bệnh nhân và nhìn lại y văn các nguyên nhân gây ra khối bất thường trong nhĩ phải.
Bệnh nhân nữ 44 tuổi. Tiền sử có bố và chị gái mất vì ung thư phổi. Bệnh diễn biến 1 tháng, bệnh nhân xuất hiện khó thở khi gắng sức, ngày càng tăng. 4 ngày trước vào viện bệnh nhân xuất hiện phù 2 chi dưới kèm theo chướng bụng. Khám: NYHA II, phù 2 chi dưới, bụng cổ chướng, gan to 5 cm dưới bờ sườn, mật độ mềm, tĩnh mạch cổ nổi. Thổi tâm thu nhẹ ổ van ba lá. Siêu âm tim: Trong lòng nhĩ phải có khối đậm âm tương đối đồng nhất, kích thước 70 x 45mm; không liên quan đến tổ chức van ba lá, không xâm lấn tĩnh mạch chủ. Khối có cuống bám vào vách liên nhĩ, di động mạnh qua lỗ van ba lá thời kỳ tâm trương, chiếm gần hết lỗ van ba lá. Chênh áp qua van ba lá thì tâm trương 15/13 mmHg. Ít dịch màng ngoài tim, tỷ trọng thấp. Chức năng tim và các van tim khác bình thường.
Cộng hưởng từ: Nhĩ phải có khối kích thước: 62x33 mm; có cuống bám vào vách liên nhĩ, không liên quan đến tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới, di động 1 phần vào thất phải trong thì tâm trương. Khối tăng mạch tín hiệu trên thì STIR, giảm trên ảnh cine và ngấm thuốc ít sau tiêm. Chức năng tim bình thường, các buồng tim không giãn Điện tâm đồ: nhịp xoang 80 chu kỳ/phút, không có dấu hiệu thiếu máu cơ tim. Bệnh nhân được làm các chẩn đoán nhằm loại trừ u di căn. - Siêu âm/CT bụng: Gan to, dịch ổ bụng. Không phát hiện u ở các tạng trong ổ bụng. - CT/X-Quang phổi: Không phát hiện bất thường. - Soi dạ dày, đại tràng: Không phát hiện bất thường. - Siêu âm/X-Quang tuyến vú: Không phát hiện bất thường. - Xạ hình xương: bình thường. - Siêu âm mạch chi dưới, mạch chủ: Không có hẹp tắc hệ động mạch, không có huyết khối hệ tĩnh mạch. - Marker ung thư: AFP: 2,21 ng/ml; CA 19-9: 13,29; CA 15-3: 15,43 U/ml; CA 12-5: 155,7 U/ ml; CA 72-4: 1,71 U/ml. - Công thức máu: Hồng cầu 5,02 T/L; HgB: 155 g/L; Hct: 43%; Tiểu cầu: 353 G/L. - Bilan viêm: Bạch cầu: 11,5 G/L; CRP: 2,21 mg/dL. Chẩn đoán trước mổ: U nhày nhĩ phải (myxomas). Phẫu thuật Mở đường dọc giữa xương ức, chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể giữa động mạch chủ lên và tĩnh mạch chủ trên - tĩnh mạch chủ dưới. Cặp động mạch chủ, liệt tim máu ấm xuôi dòng qua gốc động mạch chủ, tim ngừng. Mở nhĩ phải. Khối lớn kích thước 6x4x3cm chiếm gần toàn bộ nhĩ phải và sa một phần qua van ba lá xuống thất phải, khối màu nâu nhạt, hơi trong, bề mặt mịn, chia múi, đặc, có cuống bám vào lỗ bầu dục với chân đường kính 5 mm, không thấy xâm lấn tổ chức xung quanh. Tiến hành: lấy u, cắt toàn bộ chân u cùng lỗ bầu dục, vá lại lỗ bầu dục bằng màng tim. Kiểm tra van ba lá kín, các lá van mềm mại. Bơm rửa sạch, đóng nhĩ phải. Đầy tim đuổi khí, thả kẹp chủ, tim đập lại xoang. Không thuốc vận mạch. Đặt dẫn lưu điện cực, đóng xương ức và vết mổ. Thời gian chạy máy: 45 phút; thời gian cặp động mạch chủ 20 phút. Hậu phẫu bệnh nhân được rút nội khí quản ngày thứ nhất. Siêu âm kiểm tra sau mổ: kết quả tốt. Bệnh nhân ra viện sau 1 tuần. Lâm sàng: gan không to, hết phù, hết khó thở. Giải phẫu bệnh khẳng định lại chẩn đoán: U nhày.
Với một khối bất thường trong tim cần chẩn đoán phân biệt giữa huyết khối, u tim nguyên phát hay u di căn. Ngoài các biểu hiện lâm sàng, cần phải kết hợp với các phương tiện cận lâm sàng như siêu âm tim qua thành ngực, qua thực quản hay cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ để có chẩn đoán chính xác. Dựa vào đó để có hướng điều trị phù hợp và tiên lượng đúng cho bệnh nhân.
Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, số 77, 2016 (ctngoc)