Thành phần loài cá, tôm phân bố vùng dự án thủy lợi Ô Môn – Xà No.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2016. Số liệu được thu thập tại hiện trường theo định kỳ thu mẫu 2 tháng/đợt kết hợp với phỏng vấn 120 hộ ngư dân trong vùng nghiên cứu bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Kết quả cho thấy có 91 loài cá thuộc 67 giống, 33 họ, 11 bộ phân bố ởvùng nghiên cứu. Trong đó, bộ cá vược (Perciformes) và bộ cá da trơn (Siluriformes) là 2 bộ có số lượng loài cá phân bố nhiều nhất.

Kết quả khảo sát cho thấy có 91 loài cá thuộc 67 giống, 33 họ, 11 bộ phân bố ở vùng nghiên. Bộ cá vược Perciformes và bộ cá da trơn Siluriformes là 2 bộ có số lượng loài cá phân bố nhiều nhất ở vùng nghiên cứu với nhiều loài cá có giá trị thương phẩm và có sản lượng khai thác ổn định, đóng góp vai trò quan trọng cho sinh kế cộng đồng khai thác thủy sản ở vùng nghiên cứu.
Kết quả phân tích thành phần loài cá phân bố theo các loại hình thủy vực cho thấy có 52 loài cá phân bố bên trong và 79 loài cá phân bố bên ngoài HTCTTL.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy có khoảng 18 và 19 loài thủy sản khai thác thường xuyên ở sông, kênh/rạch và ruộng.
Đã ghi nhận được 91 loài cá thuộc 67 giống, 33 họ, 11 bộ phân bố ở vùng nghiên. Bộ cá vược (Perciformes) và bộ cá da trơn (Siluriformes) là 2 bộ có số lượng loài cá phân bố nhiều nhất. Kích cỡ các loài cá khai thác tự nhiên ở vùng nghiên cứu tương đối nhỏ. Các loài cá có sản lượng cao trong mùa lũ gồm có cá sặc bướm (Trichopodus trichopterus), cá dãnh (Puntioplites proctozystron), cá mè vinh (Barbonymus gonionotus), cá linh rìa siêm (Henicorhynchus siamensis), cá rô đồng (Anabas testudineus), cá bống trứng (Eleotris melanosoma). Loài cá lau kính(Pterygoplichthys disjunctivus) đã thiết lập quần đàn trên nhiều thủy vực gây cạnh tranh, đe dọa tính đa dạng và sự phong phú của các loài cá bản địa. Phát hiện 3 loài cá quý hiếm phân bố ở vùng nghiên cứu gồm cá thát lát còm (Chitala chitala), cá mang rỗ (Toxotes chatareus) và cá ét mọi (Labeo chrysophekadion) đều đang ở tình trạng bị đe dọa (bậc T-Threatened).
Sản lượng cá, tôm khai thác năm 2016 đã bị suy giảm 50-60% so với năm 2012 và sản lượng bên trong HTCTTL thấp hơn bên ngoài HTCTTL. Cần xây dựng mô hình quản lý và bảo tồn nguồn lợi thủy sản dựa vào cộng đồng ở vùng nghiên cứu. Nghiên cứu sâu hơn về tác động của các loài ngoại lai đến nguồn lợi thủy sản nên được thực hiện để giúp bảo vệ sự đa dạng và phong phú của các loài cá bản địa.
Bài viết được tóm tắt từ bài viết của tác giả Mai Viết Văn -Khoa thủy sản Trường đại học Cần Thơ.
Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ-Tập 55, số 2B (2019):51-60