Đột tử tim: Dự báo, tỷ lệ lưu hành, bối cảnh lâm sàng – P4
Nghiên cứu do TS. Phạm Hữu Văn thực hiện.
Ảnh minh họa
Phụ nữ có tỷ lệ tử vong do đột tử thấp hơn so với nam giới. Ở 2/3 số phụ nữ tử vong đột ngột, đột tử do tim là biểu hiện lâm sàng đầu tiên của bệnh mạch vành. Phụ nữ sau mãn kinh có gánh nặng dân số lớn nhất về bệnh tim mạch gồm cả SCD. Căn nguyên của SCD ở phụ nữ ít rõ ràng hơn, vì phụ nữ ít được thể hiện trong các nghiên cứu về SCD và trải qua ít biến cố SCD hơn nam giới. Một số nghiên cứu cho thấy bệnh mạch vành có từ trước ít được dự đoán hơn ở phụ nữ và các nguyên nhân khác có nhiều khả năng hơn. Ngoài ra, phụ nữ bị SCD ít có nguy cơ bệnh nền là bệnh mạch vành (CAD) hơn nam giới, điều này cần thiết để xác định các yếu tố nguy cơ khác ngoài CAD hoặc rối loạn chức năng tâm thu. Suy tim với chức năng tâm thu thất trái được bảo tồn, tăng hưng phấn giao cảm có thể được đánh giá bằng phán đoán qua meta-iodobenzylguanidine, trầm cảm và / hoặc sử dụng thuốc chống trầm cảm là những yếu tố nguy cơ phổ biến của SCD ở phụ nữ. Dự đoán và phòng ngừa SCD là một lĩnh vực điều tra tích cực nhưng các hướng dẫn hiện hành về can thiệp phòng ngừa có thể áp dụng cho một phần rất nhỏ dân số có nguy cơ. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ phụ nữ tham gia vào các nghiên cứu do các hướng dẫn được xây dựng.
Yếu tố chế độ ăn uống và luyện tập
Trong Nghiên cứu Sức khỏe Điều dưỡng, nguy cơ tương đối của SCD thấp hơn đáng kể ở những phụ nữ thuộc nhóm phần tư sử dụng lượng magiê cao nhất trong chế độ ăn uống. Dữ liệu gần đây từ Nghiên cứu Sức khỏe Điều dưỡng cho thấy những phụ nữ có thói quen ăn uống giống với chế độ ăn Địa Trung Hải nhất có nguy cơ mắc SCD thấp hơn đáng kể (Zarraga, 2006, Chiuve, 2011). Bất chấp những lợi ích lâu dài của việc tập thể dục, ai cũng biết SCD xảy ra với tần suất cao hơn mức trung bình trong hoặc ngay sau khi gắng sức mạnh. Mức độ nguy cơ liên quan đến gắng sức dường như thấp hơn ở phụ nữ khi SCD liên quan đến gắng sức ít phổ biến hơn nhiều (Kohl, 1992, Marijon, 2011).
Yếu tố nguy cơ tâm lý
Các nghiên cứu dựa trên dân số cho thấy các tác nhân gây căng thẳng tâm lý kéo dài như rối loạn lo âu và trầm cảm cũng có liên quan đến SCD. Lo lắng sợ hãi (phobic) có liên quan trực tiếp đến SCD, nhưng không phải nguy cơ MI không gây tử vong, ở 3 nhóm nam và nữ riêng biệt. Trầm cảm cũng có liên quan đến tăng nguy cơ ngừng tim và SCD ở phụ nữ không mắc bệnh CHD (Whang và cộng sự, 2009). Ngoài ra, nghiên cứu INTERHEART đã chỉ ra một nhóm các yếu tố nguy cơ tâm lý xã hội (tức là thiếu thốn xã hội, căng thẳng trong công việc hoặc trong cuộc sống gia đình và trầm cảm) có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (MI) (RR 3,5 đối với phụ nữ và 2,3 đối với nam giới). Dân số có 40% nguy cơ mắc bệnh ở phụ nữ và 25% ở nam giới (Piepoli và cộng sự, 2016).
Các yếu tố di truyền
Các biến thể di truyền có liên quan đến CHD cũng có thể là alen nhạy cảm với SCD trong quần thể nói chung. Trong 60 phụ nữ bị SCD, 6 biến thể sai lệch hiếm gặp (10%) được xác định trong gen kênh natri tim (SCN5A). Tần số tổng thể của các biến thể hiếm gặp này trong SCN5A cao hơn đáng kể trong các trường hợp SCD so với trong 733 đối chứng từ cùng một quần thể và những thay đổi nhỏ trong chức năng kênh ion đã được quan sát thấy ở 4 trong số 5 biến thể. Mặc dù không phải là nguyên nhân phổ biến của SCD, dữ liệu cho thấy các đột biến có ý nghĩa về mặt chức năng và các biến thể hiếm gặp trong SCN5A có thể góp phần vào nguy cơ SCD ở những phụ nữ có tỷ lệ bệnh tim cấu trúc thấp hơn (Deo, Albert và cộng sự, 2012, Albert, McGovern và cộng sự. 1996, Albert và cộng sự, 2008). Phần lớn sa van hai lá được cho là lành tính, nhưng có một số đặc điểm nhất định như độ dày của lá, độ dư thừa và đường kính LV tăng dường như có liên quan đến nguy cơ cao hơn, và dữ liệu gần đây cho thấy phụ nữ bị sa hai lá van và ngoại vị thất sớm có thể là nguy cơ đặc biệt. Nhìn chung, dữ liệu về phân tầng nguy cơ SCD và sử dụng ICD thích hợp ở bệnh nhân bệnh van tim là rất có thiếu và cần có các nghiên cứu sâu hơn về phân nhóm bệnh nhân có nguy cơ này (Hayashi và cộng sự, 2015).
Dự báo và phòng ngừa SCD là một lĩnh vực điều tra tích cực, nhưng các hướng dẫn hiện hành về can thiệp phòng ngừa chỉ áp dụng được cho một phần rất nhỏ dân số có nguy cơ và chỉ một tỷ lệ nhỏ phụ nữ tham gia vào các nghiên cứu do các hướng dẫn đã được xây dựng. SCD ở phụ nữ dễ dự đoán với các yếu tố nguy cơ hơn so với ước tính và chấp nhận. Điều chỉnh yếu tố nguy cơ và nỗ lực nhận biết sớm hơn các bệnh tim mạch ở phụ nữ, với nhiều thiết bị phòng ngừa ban đầu và quy trình phòng ngừa thứ phát sẽ làm giảm SCD. Để bảo vệ, ngăn ngừa và điều trị cho cả hai giới, chúng ta phải tiến hành nhiều cách đi hơn để đưa ra các chiến lược quản lý dựa trên bằng chứng.
ctngoc