Thông điệp đầu năm mới của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
HOÀN
THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA, THÚC ĐẨY CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ, CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
NGUYỄN TẤN DŨNG
Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ
Tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần
thứ XI là tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát
triển nhanh và bền vững. Tiền đề để thực hiện thành công nhiệm vụ này là triển
khai hiệu quả ba đột phá chiến lược; trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường vừa là một đột phá then chốt, có tác động trực tiếp đến quá trình tái cơ
cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, lại là nhiệm vụ không đòi hỏi nhiều nguồn
lực tài chính, nếu nhận thức đúng và quyết tâm cao có thể hoàn thành cơ bản
trong một thời gian tương đối ngắn.
I
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn lực cho phát
triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống
nhân dân.
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, các yếu tố của
kinh tế thị trường chưa hình thành đầy đủ. Thị trường đất đai còn nhiều vướng
mắc. Thị trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường trái phiếu còn
sơ khai, thị trường chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy
động vốn quan trọng của nền kinh tế, đang dồn gánh nặng lên thị trường tín
dụng, làm cho thị trường này rất dễ bị tổn thương. Thị trường khoa học công
nghệ chậm phát triển. Thị trường lao động tuy đã khá hoàn chỉnh nhưng chất
lượng nguồn nhân lực thấp cùng với sự bất hợp lý về tiền lương giữa các khu vực
đang là rào cản lớn cho việc chuyển dịch lao động đến những lĩnh vực thiết yếu
trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Giá cả một số hàng hóa và dịch
vụ chưa bù đắp được chi phí, chưa theo cơ chế thị trường, làm cản trở việc thu
hút nguồn lực và công nghệ cao cho phát triển.
Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường
vận động đồng bộ trong chỉnh thể đó. Một loại thị trường không phát triển đầy
đủ sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động
chung. Trong bối cảnh đó, rất dễ dẫn đến sự can thiệp hành chính vào các quá
trình kinh tế. Sự can thiệp này có thể giải quyết những khó khăn trước mắt
nhưng chi phí sẽ lớn hơn cơ hội tạo ra và làm sai lệch quá trình phát triển.
Rốt cuộc, những vấn đề cơ bản vẫn không được giải quyết. Đây có thể là một
nghịch lý trong sự vận động của tư duy mà những người làm công tác quản lý phải
nhận thức được để có cách hành xử đúng đắn và nhất quán.
Từ thực tiễn này, trong năm 2012, phải tập trung sức hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường theo quan điểm đã được Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác
định.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất
nước có thể tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu
vực, phải xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các
nguồn lực dịch chuyển trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo tín
hiệu của thị trường quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát triển hài
hòa, cân đối của nền kinh tế. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp phát
triển nguồn nhân lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản xuất và công nghệ quản
lý mới, tạo lập lợi thế cạnh tranh động để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội so với
các chủ thể kinh doanh khác, qua đó thúc đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục
cơ cấu đầu tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với
nhiều sản phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế. Đây chính là
biện chứng của sự phát triển.
Phải từ những đặc điểm của thể chế kinh tế thị trường hiện đại để làm
chuẩn mực cho quá trình hoàn thiện thể chế. Có thể nêu ra những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, các loại thị trường phát
triển đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, vận động
cùng nhịp, hỗ trợ lẫn nhau, cùng tương tác trong một chỉnh thể thống nhất. Đây
là điều kiện để thị trường vận hành thông suốt, các nguồn lực dịch chuyển thuận
lợi, được phân bổ hợp lý, hiệu quả.
Trong năm 2012 và cả những năm tiếp theo, phải tập trung sức sửa đổi
Luật Đất đai, tạo điều kiện hình thành loại thị trường này, thúc đẩy sự phát
triển lành mạnh của thị trường bất động sản; phát triển thị trường trái phiếu,
mở rộng thị trường bảo hiểm; phát triển mạnh thị trường khoa học công nghệ. Đẩy
mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn
với cải cách tiền lương, tạo điều kiện cho thị trường lao động vận hành thông
suốt. Kiên trì thực hiện lộ trình giá thị trường đối với những sản phẩm Nhà
nước còn định giá...
Thứ hai, thể chế kinh tế thị
trường hiện đại đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các chủ thể tham gia thị trường. Cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường,
là một trong những tiêu chí đo lường tính thị trường của nền kinh tế. Một thị
trường cạnh tranh cao có tác dụng kiềm giữ giá tốt hơn sự kiểm soát giá của nhà
nước. Điều quan trọng là cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí,
nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả. Chính phủ sẽ chỉ đạo rà soát, đánh giá
mức độ cạnh tranh trong từng ngành sản xuất, dịch vụ, loại bỏ sự phân biệt đối
xử còn tồn tại trong thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng
cường năng lực của cơ quan bảo vệ tài sản trí tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh
trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và lợi dụng vị thế
thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, thực hiện công khai
minh bạch và trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát
triển cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Thể chế kinh tế thị
trường cùng với tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với việc hình
thành cấu trúc đa sở hữu và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến sự hình thành các
“nhóm lợi ích”. Về khách quan, các “nhóm lợi ích” này có thể tác động đến quá
trình ra quyết định. Công khai minh bạch không những tạo cơ hội bình đẳng trong
tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn, thực hiện công khai minh bạch và đề cao
trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện cho người dân giám sát các quyết định của
các cơ quan quản lý, là biện pháp cơ bản để ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động
của các “nhóm lợi ích” vào quá trình ra quyết định, bảo đảm cho các quyết định
theo chuẩn “giá trị chung”, vì lợi ích của đất nước. Công khai minh bạch cũng
hạn chế đầu cơ, giảm chi phí kinh doanh và tăng hiệu quả của thị trường.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật cũng như hoạt động chất vấn trong các Kỳ họp Quốc Hội và Hội đồng nhân dân
các cấp, chúng ta đã đạt được những tiến bộ rất lớn về thực hiện công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan Nhà nước. Tuy vậy, kết quả
này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Từ quan điểm chính trị chủ đạo là Đảng và Nhà nước ta
phải bảo đảm quyền của người dân trong tiếp cận thông tin và phản biện xã hội,
Chính phủ sẽ nghiên cứu hoàn thiện các quy định về công khai thông tin và quyền
tiếp cận thông tin, đồng thời tăng cường đối thoại chính sách, các đề án phát
triển giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các chuyên gia độc lập và người
dân, không chỉ ở công đoạn “hậu kiểm” như đang làm hiện nay mà quan trọng hơn
là ở công đoạn “tiền kiểm”, trước khi các quyết định được ban hành. Tiếp tục
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, tập
trung vào những nội dung thuộc chính sách phát triển và tác động của nó đến các
tầng lớp dân cư.
Thứ tư, thể chế kinh tế thị
trường hiện đại trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng đòi hỏi phải định vị lại mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
Theo đó, Nhà nước chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế
sang thực hiện chức năng kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô,
tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát triển và
nâng cao chất lượng các dịch vụ công.
Một thách thức đặt ra cho quản lý của Nhà nước trong điều kiện toàn cầu
hóa là mỗi biến động trên thị trường thế giới tác động rất nhanh, rất mạnh đến
thị trường trong nước. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao năng lực dự
báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm hạn chế những tác động xấu đến nền
kinh tế. Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa cũng làm cho một bộ phận dân cư dễ
bị tổn thương, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo. Nhà nước cần có các chính
sách đúng đắn, sử dụng những công cụ điều tiết nhằm khắc phục mặt trái của kinh
tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với
tiến bộ và công bằng xã hội. Cần khẳng định rằng thị trường hoạt động theo quy
luật của nó, trước hết là quy luật cạnh tranh, quy luật lợi nhuận. Sự phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chức năng của Nhà nước. Một mặt, Nhà
nước cần phát huy “sức mạnh tự điều chỉnh” của thị trường, mặt khác phải “hoá
giải” được tác động tiêu cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự phát
triển. Từ đó, vai trò của Nhà nước không hề giảm đi mà phải được tăng cường
trên những nội dung mới, theo những phương thức tác động mới.
Phải từ những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra mà
hoàn thiện bộ máy nhà nước các cấp cả về chức năng, cơ cấu tổ chức, các quy
định về phân cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường.
Thứ năm, một thể chế kinh tế
thị trường hiện đại phải hướng về người tiêu dùng, lấy người tiêu dùng làm chủ
thể. Phải không ngừng hoàn thiện các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, phát triển các trung tâm bảo vệ người tiêu dùng. Chính phủ sẽ tập trung
chỉ đạo hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm; tăng cường công tác kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá lưu thông
trên thị trường nội địa; bổ sung các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm. Rà soát,
hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ người tiêu dùng để đưa pháp luật
vào cuộc sống; tạo lập các cơ sở pháp lý để khuyến khích phát triển các tổ chức
phi chính phủ về bảo vệ người tiêu dùng.
Một thể chế kinh tế thị trường hiện đại với những đặc điểm nêu trên sẽ
tạo điều kiện để đất nước tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong một thế
giới đang toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng và cạnh tranh gay gắt.
II
Khi nói các đột phá chiến lược là tiền đề của tái
cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hoàn toàn
không có nghĩa là phải đợi thực hiện xong các đột phá mới
thực hiện tiến trình này. Các tiền đề đã hình thành và sẽ được hoàn thiện trong
suốt quá trình phát triển. Tái cơ cấu là công việc diễn ra tương đối liên tục
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế
cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như trong từng doanh nghiệp. Chính trên quan
điểm đó và từ tầm nhìn của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020,
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngay trong thời kỳ kế hoạch 2011 - 2015.
Mục tiêu của tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu các ngành sản xuất, dịch vụ theo yêu cầu nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc
tế để có thể tham gia vào những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong mạng
sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Theo mục tiêu này, quá trình
tái cơ cấu kinh tế sẽ được thực hiện đồng bộ trên các nội dung sau:
Một là, tái cơ cấu các ngành sản
xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp là chuyển từ một ngành công nghiệp gia công
lắp ráp có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng thấp, sang phát
triển các ngành chế tạo và chế biến có giá trị gia tăng cao, tập trung phát
triển các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ và một số sản phẩm công nghệ cao mà nước
ta có tiềm năng và lợi thế.
Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành là “mạch máu”
của nền kinh tế như các dịch vụ tài chính, nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm
phòng tránh rủi ro và an toàn hệ thống. Phát triển các dịch vụ có giá trị gia
tăng cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, đổi mới cơ chế nhằm khuyến khích phát
triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công.
Trong nông nghiệp là phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng
nông thôn mới và cải thiện đời sống nông dân. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp và nông thôn. Đưa công nghiệp và khoa học công nghệ tác
động vào nông nghiệp trên tất cả các công đoạn từ nuôi trồng, chăm sóc, thu
hoạch, bảo quản, chế biến đến phân phối. Gắn việc áp dụng khoa học công nghệ
với tổ chức sản xuất, phát triển các mô hình sản xuất lớn, từng bước hình thành
các tổ hợp nông công nghiệp công nghệ cao; gắn kết các công đoạn của quá trình
tái sản xuất trong một chuỗi giá trị bảo đảm phân phối hài hòa lợi ích giữa các
công đoạn trong chuỗi gia trị đó. Đây là con đường cơ bản để phát triển nông
nghiệp bền vững.
Hai là, tái cơ cấu doanh
nghiệp. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế được mở đường từ các chính sách vĩ mô
nhưng lại phải được thực hiện trong từng doanh nghiệp. Tái cơ cấu doanh nghiệp
là cơ sở tạo nên diện mạo mới của nền kinh tế. Để tái cơ cấu doanh nghiệp, phải
ứng dụng những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ trong sản xuất và quản
lý, phải đổi mới mô hình tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp phù hợp
với sự thay đổi công nghệ sản xuất và sự phát triển của thị trường nhằm tăng
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ba là, điều chỉnh chiến lược
thị trường. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn
cho doanh nghiệp tăng khả năng tận dụng lợi thế do quy mô các dự án đầu tư và
tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế, nhất là những nền kinh tế có độ mở lớn như nước ta.
Điều đó cũng dễ dẫn đến những bất định nhiều khi vượt khỏi khả năng dự báo. Vì
vậy, phải đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu, hạn chế sự lệ thuộc vào
một số ít thị trường, đồng thời phải hết sức coi trọng thị trường nội địa, nhất
là địa bàn nông thôn. Đối với thị trường xuất khẩu, điều quan trọng không chỉ
là tăng xuất khẩu vào từng quốc gia, vùng lãnh thổ mà là xâm nhập vào chuỗi giá
trị trong bối cảnh mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng phát
triển. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải hình thành chuỗi cung ngay trên
thị trường trong nước. Đây là con đường để phát triển thương mại bền
vững.
Gắn kết và thực hiện đồng thời với tái cơ cấu các lĩnh
vực nêu trên là tái cơ cấu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
theo một quy hoạch và một hệ thống phân cấp được rà soát chặt chẽ theo tầm nhìn
dài hạn và tư duy liên vùng. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán,
tập trung cho các công trình thiết yếu, sớm đưa vào khai thác, tạo điều kiện
cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển thuận lợi đến những vùng có tiềm năng phát
triển, góp phần giảm chi phí vận tải, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế. Giảm tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội; hoàn thiện cơ chế
khuyến khích để thu hút mạnh đầu tư của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp
nước ngoài, phát triển các phương thức đầu tư, đặc biệt là phương thức hợp tác
công - tư (PPP), nâng cao hiệu quả đầu tư.
Các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế phải được thực hiện trong
suốt quá trình công nghiệp hóa nhưng phải được bắt đầu ở những lĩnh vực cấp
bách nhất, đó là tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu thị
trường tài chính, trọng tâm là hệ thống các ngân hàng thương mại và tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước. Sự lựa chọn này là rất đúng đắn và cần thiết vì đây là những lĩnh vực
hiệu quả còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực bỏ ra và tiềm ẩn nguy cơ gây
bất ổn kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của nền
kinh tế. Tái cơ cấu các lĩnh vực này còn có tác động thúc đẩy quá trình tái cơ
cấu theo các nội dung toàn diện nêu trên. Chính phủ đang chỉ đạo sát sao việc
xây dựng đề án tái cơ cấu trong từng lĩnh vực để triển khai mạnh mẽ theo những
quy trình chặt chẽ cho từng bước với những mục tiêu cụ thể đặt ra cho mỗi bước,
xác định rõ các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả. Yêu cầu đặt ra là phải
bảo đảm sự đồng bộ khi thực hiện tái cơ cấu các lĩnh vực nói trên do mối quan
hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng, đồng thời tăng cường công tác giám sát việc thực
hiện ở mỗi Bộ, ngành, địa phương và từng doanh nghiệp, giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô, không gây xáo động lớn cho nền kinh tế, “rút dây” mà không “động rừng”.
Tái cơ cấu nền kinh tế đặt ra yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Ngược lại, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nội dung cơ bản của tái cơ cấu
doanh nghiệp, là điều kiện để tăng hiệu suất sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, có tác động mạnh mẽ đến tái cơ cấu đầu tư và
tái cấu trúc thị trường tài chính, góp phần giảm thiểu chi phí của quá trình
tái cơ cấu. Phải chuyển mạnh từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào tăng vốn
đầu tư, khai thác tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt và nguồn nhân lực chất
lượng thấp sang mô hình tăng trưởng dựa vào việc áp dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và phương pháp quản trị hiện
đại; nâng cao mức đóng góp của các yếu tố tổng năng suất vào tăng trưởng. Phát
triển mạnh công nghiệp chế tạo, chế biến, nhất là các ngành công nghệ cao, có
giá trị gia tăng lớn, giảm tỷ trọng của công nghiệp gia công trong tổng giá trị
sản xuất công nghiệp.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng vừa là yêu cầu cấp bách
vừa là nhiệm vụ lâu dài, gắn với phát triển nguồn nhân lực
và quá trình đổi mới công nghệ sản xuất và quản lý. Để
thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong
năm 2012, cùng với việc sớm phê duyệt đề án phát triển thị trường công nghệ,
Chính phủ sẽ ban hành các chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ trong các
doanh nghiệp; quy định tiêu chuẩn công nghệ trong Luật Đầu tư công và các dự án
đấu thầu; khuyến khích mạnh các dự án áp dụng công nghệ mới và các dự án có lập
trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ; tăng cường hợp tác công - tư trong
việc hình các quỹ đầu tư mạo hiểm về khoa học công nghệ… Xây dựng văn bản pháp
lý cao hơn để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Cùng với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
trong năm 2012 phải tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo trong kết luận số 02
của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 11 của Chính phủ, tăng cường ổn định vĩ mô,
kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là
những nhiệm vụ rất nặng nề và khó khăn, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới
đang diễn biến phức tạp, thậm chí có nguy cơ rơi vào vòng suy thoái mới, đòi
hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp. Trong đó, Nhà nước đóng
vai trò mở đường, tạo cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện nhưng kết quả
phải được phản ánh trên từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp
phải là chủ thể, có vai trò quyết định.
Chúng ta có thuận lợi cơ bản là đã tạo được sự thống nhất cao về
nhận thức trong cả hệ thống chính trị, có sự quyết tâm cao trong các cơ quan
quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương và cộng đồng doanh nghiệp. Phải
chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua
sức ỳ của quá trình khởi động, đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ
đạo mới - Quỹ đạo phát triển bền vững.