Hướng điều trị tràn dịch não cấp sau chảy máu dưới nhện
Nghiên cứu do nhóm tác giả Võ Hồng Khôi, Nguyễn Công Hoàng, Đào Ngọc Minh thực hiện.

Ảnh minh họa
Chảy máu dưới nhện, một thể của đột quỵ não, là khi máu chảy tràn vào trong khoang dưới nhện và hòa lẫn với dịch não -tủy. Tràn dịch não cấp là một trong những biến chứng nguy hiểm của chảy máu dưới nhện do hậu quả của máu chảy vào khoang dưới nhện, vào các não thất; máu đọng trong các não thất làm tắc nghẽn lưu thông dịch não -tủy, làm mất chức năng tiêu, thấm dịch não - tủy của các hạt Pacchioni; dẫn tới tăng áp lực trong sọ. Tràn dịch não cấp thường xảy ra muộn hơn so với chảy máu tái phát và co thắt mạch; hay gặp vào tuần thứ nhất của chảy máu dưới nhện. Hiện nay, số lượng nghiên cứu so sánh hiệu quả điều trị của nội khoa và ngoại khoa trong xử trí tràn dịch não cấp sau chảy máu dưới nhện còn hạn chế.
Bệnh nhân chảy máu dưới nhện trong tuần đầu được chẩn đoán xác định dựa vào các biểu hiện lâm sàng, chụp cắ lớp vi tính sọ não và được điều trị tại khoa Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015. Bệnh nhân có biến chứng tràn dịch não trong vòng một tuần đầu; có giãn não thất toàn bộ hệ thống hoặc một phần (Não thất bên một bên, hai bên...); theo Hoàng Đức Kiệt.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều trị Nội khoa 72,2%; ngoại khoa 27,8%. Hướng xử trí nội khoa: chống phù não 77,3%; giảm đau, an thần 81,9%; thuốc hạ huyết áp 43,2%; đặt nội khí quản 29,5%. Hướng xử trí ngoại khoa: dẫn lưu não thất ra ngoài 17,7%; dẫn lưu não thất ổ bụng 52,9%; phẫu thật lấy khối máu tụ kết hợp kẹp túi phình và dẫn lưu não thất ổ bụng chiếm tỷ lệ 29,4%. Chỉ định ngoại khoa: máu tụ lớn, di lệch đường giữa nhiều chiếm tỷ lệ 35,3%; giãn não thất mức độ nặng chiếm 41,1%. Kết quả điều trị nội khoa và ngoại khoa: chủ yếu là di chứng vừa đến nặng. Biến chứng thường gặp nhất là loét (nội khoa 52,3%, ngoại khoa 64,7%). Việc điều trị nội khoa vẫn là cơ bản chỉ nên mổ cho các trường hợp não thất giãn nhiều, máu tụ lớn làm di lệch đường giữa nhiều và cần chú ý các trường hợp này nguy cơ biến chứng cao.
tdkhiem
Tạp chí Y học Việt Nam, số 2/2022