Khả năng kháng oxy hóa, ức chế enzyme α-amylase và α-glucosidase của cao chiết từ lá cây lộc vừng
Nghiên cứu do đồng tác giả Nguyễn Phạm Tuấn - Trung tâm Công nghệ sinh học tỉnh An Giang, Nguyễn Thị Ái Lan - Trường Đại học Trà Vinh thực hiện.

Ảnh minh họa
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh do sự rối loạn chuyển hóa carbohydrate khi hormone insulin của tuyến tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể. ĐTĐ biểu hiện bằng lượng glucose trong máu cao hơn bình thường. Đối với người bệnh tiểu đường type 2, việc tăng glucose trong máu thường gây những biến chứng nguy hiểm. Kiểm soát đường huyết đặc biệt là đường huyết sau bữa ăn được xem là một mục tiêu quan trọng trong điều trị ĐTĐ(Yaovà cs., 2010).Điều này có thể đạt được thông qua việc ức chế enzyme tiêu hóa carbohydrate như enzyme α-amylase và α-glucosidase. Hiện nay, ĐTĐ được kiểm soát bằng nhiều phương pháp khác nhau như sử dụng thuốc duy trì lượng glucose trong máu ổn định (Sulfonylurea), chất ức chế tiêu hóa và hấp thu tinh bột (Glucobay), thuốc cảm ứng độ nhạy của insulin nhưng có giá thành cao và nhiều tác dụng phụ như béo phì, vàng da,...gây nhiều khó khăn trong quá trình điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Với xu hướng hiện nay trên thế giới và Việt Nam, nghiên cứu và phát triển các loại thuốc hạ đường huyết, có nguồn gốc thực vật được sử dụng phổ biến trong dân gian, nhằm tìm những loại thuốc mới hiệu quả và không gây tác dụng phụ so với các thuốc hóa dược là rất cần thiết. Đồng thời, tận dụng được nguyên liệu sẵn có, rẻ tiền, sử dụng tiện lợi để người bệnh và thầy thuốc có thêm lựa chọn.
Nghiên cứu khả năng ức chế hoạt độngenzyme α-amylase, α-glucosidase và kháng oxy hóa của lá cây lộc vừng được nghiên cứu in vitro. Lá cây lộc vừng được ly trích bằng phương pháp soxhlet bằng các dung môi nước, ethanol 70% và methanol 70%. Hàm lượng phenolic, flavonoid, khả năng ức chế α-amylase, α-glucosidase và kháng oxy hóa được xác định bằng việc đo quang phổ ở bước sóng 510 nm, 765 nm, 660 nm, 405 nm và 517 nm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ ẩm đạt 70,64% và hiệu suất chiết của lá cây lộc vừng đạt 9,78-13,13%. Lá cây lộc vừng được xác định có chứa các hợp chất alkaloid, terpenoid, flavonoid, steroid, tannin và phenol. Hàm lượng polyphenol của cao chiết lá cây lộc vừng lần lượt là 70,06 (nước); 77,94 (ethanol); 85,23 (methanol) mg GE/g cao chiết. Hàm lượng flavonoid của cao chiết lá cây lộc vừng lần lượt là 88,91 (nước); 109,65 (ethanol); 125,56(methanol) mg quercetin/g cao chiết. Cao chiết lá cây lộc vừng có khả năng kháng oxy hóa bằng DPPH với giá trị IC50lần lượt là 121,16 μg/mL (nước); 109,60 μg/mL (ethanol) và 98,42 μg/mL (methanol). Cao chiết lá cây lộc vừng còn có khả năng ức chế α-amylasevới giá trị IC50lần lượt là 145,31 μg/mL (nước); 131,72 μg/mL (ethanol) và 120,62 μg/mL (methanol).Cao chiết lá cây lộc vừng có khả năng ức chế α-glucosidasevới giá trị IC50lần lượt là 197,6 μg/mL (nước); 176,73 μg/mL (ethanol) và 158,01 μg/mL (methanol).
ctngoc
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, tập 6/2022