Đa dang di truyền của 120 giống/dòng đậu nành (Glycine max (l.) merr.) bằng chỉ thị phân tử SSR
Nghiên cứu do nhóm tác giả Huỳnh Kỳ, Nguyễn Lộc Hiền, Văn Quốc Giang, Nguyễn Văn Mạnh, Chung Trương Quốc Khang, Trần In Đô, Nguyễn Châu Thanh Tùng - Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện.
Ảnh minh họa
Đậu nành (Glycine max (L.) Merr.) là cây họ đậu đóng vai trò quan trọng trên thế giới, đây là một trong những nguồn cung cấp protein và dầu (khoản 40% protein và 20% dầu thực vật) cho người và động vật (Ibanda và cs., 2018), do đó đậu nành được trồng phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, ước tính khoảng 100 nghìn ha đậu nành được canh tác vào năm 2017, với sản lượng khoảng 157 nghìn tấn (Tổng cục thống kê, 2020). Tuy nhiên, diện tích canh tác đậu nành bị thu hẹp lại còn khoảng 55 nghìn ha vào năm 2018 (Tổng cục thống kê, 2020), nguyên do diện tích đất nông nghiệp mất đi, thêm vào đó đậu nành còn là cây trồng không mang lại giá trịkinh tếcao so với các loại cây trồng khác, do đó việc cải tiến giống đậu nành là thiết yếu cho việc phát triển loại cây trồng này.
Nghiên cứu đa dạng di truyền nhằm mục đích tìm ra mối quan hệgiữa các kiểu gen trong tập đoàn giống/dòng cây trồng, từ đó có thểđưa ra chiến lược chọn tạo giống, cải thiện nguồn gen. Nghiên cứu này đã sửdụng 09 chỉ thị phân tử SSR để đánh giá mức độ đa dạng di truyền của 120 giống/dòng đậu nành (Glycine max(L.) Merr.) đang được bảo tồn tại ngân hàng giống trường Đại học Cần Thơ. Kết quảđiện di sản phẩm PCR bằng 09 chỉt hị phân tử SSR thu được 52 phân đoạn và tất cả 52 phân đoạn đều có tỷ lệ đa hình trung bình cao (100%). Chỉ số PIC dao động từ0,05 (satt596) đến 0,46 (satt009), với giá trị trung bình là 0,21. Cây phả hệ được xây dựng dựa trên 09 chỉ thị SSR bằng phân tích nhóm UPGMA phân các mẫu thành 11 nhóm chính với hệ số di truyền trung bình là 0,7 và hệ số tương đồng dao động từ 0,47-0,87. Kết quả này cho thấy bộ sưu tập 120 giống/dòng đậu nành rất đa dạng về bản chất di truyền và có thể dùng làm vật liệu ban đầu cho công tác chọn tạo giống đậu nành trong tương lai.
ctngoc
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, tập 5 (3) 2021