SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Hiện trạng sản xuất lúa và xử lý rơm rạ sau thu hoạch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

[08/08/2022 16:03]

Nghiên cứu do nhóm tác giả Trần Thị Xuân Phương, Hoàng Trọng Nghĩa - Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế1, Hồ Đăng Khoa, Tôn Thất Các, Phùng Viên, Trương Phước Hiếu - Công ty TNHH Một thành viên Nông sản Hữu cơ Quế Lâm, Nguyễn Hoàng Linh - Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, Thành phố Hải Dương thực hiện.

Ảnh minh họa

Thừa  Thiên  Huế với  diện  tích  sản xuất lúa hằng năm hơn 50.000 ha và sản lượng đạt  trên 320.000  tấn  (Niên  giám thống  kê tỉnh Thừa  Thiên  Huế,  2020). Tương ứng  với  diện tích và sản lượng lúa thì cả 2 vụ lượng rơm rạ thải ra khá lớn, ước tính từ 300 -350 nghìn tấn. Theo nghiên cứu  của  Viện  nghiên  cứu  lúa  Quốc  tế(IRRI), trong 1 tấn rơm chứa 5-8 kg đạm; 1,2 kg lân; 20 kg kali; 40 kg silic và 400 kg carbon   (Dobermann  và  Fairhurt, 2002). Chứng  tỏrơm rạ là nguồn  phế phụ phẩm nông nghiệp có giá trị cao. Rơm rạ có thể được dùng lợp nhà, làm chất đốt, làm nấm, thức  ăn  cho  gia  súc,  phục  vụ chăn  nuôi, phân  bón  cho  cây  trồng,...Như  vậy,  tận dụng rơm rạkhông chỉnâng giá trịvà thu nhập từ sản xuất lúa mà còn tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn và góp phần bảo  vệmôi  trường. Tuy  nhiên,  hiện  nay phần lớn rơm rạ ít được sử dụng mà có xu hướng vứt bỏ hoặc đốt ngay trên đồng ruộng sau khi thu hoạch. Đây là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường  do quá trình đốt cháy thải ra khí quyển nhiều chất khí là CO2, CO, NOx,  CH4,  SO2,...(Thong chai  và  Nguyen Thi Kim Oanh, 2011) và ảnh hưởng xấu đến sức  khỏe người dân (Nguyễn Xuân Cựvà cs.,  2011;  Nguyễn Thành Hối và Nguyễn Bảo Vệ, 2016).

Điều tra thực trạng sản xuất lúa và vấn đề xử lý rơm rạ sau thu hoạch tại Thừa Thiên Huế được thực hiện thông qua phỏng vấn nông hộ ở xã Thủy Phù (thị xã Hương Thủy) và xã Hương Toàn (thị xã Hương Trà). Tiến hành điều tra 80 hộ nông dân bằng phiếu hỏi lập sẵn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, diện tích sản xuất lúa của các nông hộ đều phân bố rải rác với quy mô chủ yếu <5000 m2 (chiếm 77,5%). Cơ cấu giống lúa đa dạng với 16 giống và đã mạnh dạn canh tác các giống lúa mới. Các nông hộ ở địa điểm điều tra bón phân vô cơ cho lúa ở mức cao hơn so với quy trình khuyến cáo của Trung tâm Khuyến nông lâm ngư Thừa Thiên Huế. Các loại phân vô cơ được trộn lẫn với nhau và bón tập trung trong 4 đợt (bón lót và 3 lần bón thúc). Nông dân cũng sử dụng phân hữu cơ vi sinh Sông Hương và Quế Lâm để bón lót cho cây lúa nhưng tỷ lệ hộ áp dụng chưa nhiều (22,5% ở Thủy Phù và 12,5% ở Hương Toàn) và lượng bón còn thấp (500 kg/ha). Đa số nông hộ thu hoạch lúa bằng máy gặp đập liên hợp. Tùy tập quán từng vùng mà chiều cao gốc rạ để lại sau thu hoạch có khác nhau từ 20 -30 cm (ở Hương Toàn)và >30 cm (ở Thủy Phù). Hình thức xử lý rơm rạ của người dân chủ yếu là đốt trực tiếp, vùi lấp và xử lý bằng chế phẩm.

ctngoc

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, tập 5 (3) 2021
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ