Đa dạng sản phẩm từ cây sâm Việt Nam
Nhóm tác giả ở Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn bào chế thành công bốn sản phẩm tiện dụng từ Sâm Việt Nam trồng tại Lâm Đồng.
Sâm Việt Nam 6 tuổi trồng tại Lâm Đồng. Ảnh: NNC
Được phát hiện vào năm 1973 tại Kon Tum, Sâm Việt Nam là một loài sâm quý, có tác dụng tăng sinh lực, sức đề kháng, miễn dịch, bảo vệ gan, chống ung thư, phục hồi các rối loạn bệnh lý gây bởi stress tâm lý,… Nhân sâm đã được một số nước chế biến thành nhiều dạng khác nhau (cao lỏng, cao khô, viên nang cứng, viên nang mềm, kẹo sâm, trà sâm,…), để phong phú sản phẩm và thuận tiện cho người sử dụng.
Tuy nhiên, hiện nay sâm Việt Nam vẫn chủ yếu được sử dụng ở dạng đơn giản như nước sắc, rượu thuốc vốn mất nhiều thời gian chế biến, không tiện dụng, quá trình bào chế theo phương pháp thủ công không đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Trước thực tế đó, GS.TS Nguyễn Minh Đức cùng các cộng sự tại Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu sự tích lũy hoạt chất saponin theo tuổi cây và ứng dụng vào sản xuất một số sản phẩm chất lượng cao từ Sâm Việt Nam trồng tại Lâm Đồng”.
Thân rễ và rễ củ Sâm Việt Nam được thu hái tại Trại Sâm Việt Nam của Công ty Cổ phần Sâm Việt VGC (Lạc Dương, Lâm Đồng). Từ nguồn nguyên liệu này, nhóm tác giả bào chế thành 4 loại sản phẩm, gồm cao lỏng; bột chiết chứa 20% cao lỏng; sâm tẩm mật ong; trà hòa tan Sâm Việt Nam.
Cụ thể, nhóm đã bào chế cao lỏng Sâm Việt Nam với độ ẩm 29,85% (đạt TCCS Cao lỏng Sâm Việt Nam) bằng hệ thống chiết xuất đun hồi lưu. Cao lỏng đặc sánh, màu nâu đen, mùi thơm đặc trưng, vị rất đắng, đồng nhất, không có váng mốc, không có cặn bã. Tổng hàm lượng saponin 18,8%.
Từ nguồn cao lỏng thu được, nhóm kết hợp với một số nguyên liệu khác để bào chế nên bột chiết chứa 20% cao lỏng. Bột chiết khô tơi, màu vàng nhạt, mùi thơm đặc trưng, vị đắng nhẹ, đồng nhất, không có cặn bã. Sau khi hòa với nước, dung dịch có màu vàng nhạt, mùi thơm nhẹ, vị đắng nhẹ, đặc trưng của sâm Việt Nam. Tổng hàm lượng saponin trong sản phẩm là 2,4%.
Sâm Việt Nam tẩm mật ong. Ảnh: NNC
Để bào chế sâm tẩm mật ong, nhóm tác giả dùng rễ củ sâm tươi. Sâm tẩm mật ong được làm chín trong quá trình chế biến, mềm, dẻo, màu nâu đen, có mùi, vị đắng, thơm đặc trưng, và vị ngọt của mật ong. Tổng hàm lượng saponin trong sản phẩm là 5,2%. Chế phẩm có khả năng bảo quản được lâu dài, thuận tiện cho việc thương mại hóa và sử dụng chế phẩm.
Trong khi đó trà hòa tan được bào chế từ cao lỏng kết hợp với tá dược. Trà khô tơi, màu vàng nhạt, mùi thơm đặc trưng, vị đắng nhẹ, đồng nhất. Sau khi hòa với nước, dung dịch có màu vàng nhạt, mùi thơm nhẹ, vị đắng nhẹ, đặc trưng của sâm Việt Nam. Tổng hàm lượng saponin trong sản phẩm là 2,9%.
Theo GS.TS Nguyễn Minh Đức, Chủ nhiệm đề tài, 4 sản phẩm trên đều có tiêu chuẩn cơ sở khoa học, đạt chất lượng, được thẩm định bởi Viện Kiểm Nghiệm thuốc TPHCM. Ngoài ra, quy trình sản xuất các sản phẩm khá đơn giản, chi phí thấp, phù hợp với điều kiện trang thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp trong nước, dễ dàng triển khai sản xuất trên quy mô lớn.
Trà Sâm Việt Nam hòa tan. Ảnh: NNC
GS.TS Nguyễn Minh Đức cho biết thêm, theo dõi động thái tích lũy của saponin trong Sâm Việt Nam di thực trồng ở Lâm Đồng từ 2-6 tuổi, nhận thấy sự tích lũy saponin có xu hướng tăng theo năm tuồi, tương tự động thái tích lũy saponin trong Sâm Việt Nam trồng tại trại sâm Trà Linh (vùng núi Ngọc Linh, Quảng Nam). Trong đó sâm 6 tuổi cho hàm lượng saponin 13,2%.Kết quả định lượng còn cho thấy hàm lượng các saponin chính trong Sâm Việt Nam trồng ở Lâm Đồng dùng làm nguyên liệu bào chế thành các sản phẩm cũng rất cao (tương đương Sâm Việt Nam trồng ở vùng Ngọc Linh), và cao hơn nhiều so với yêu cầu hàm lượng của dược liệu theo Dược điển Việt Nam - V (2017).
Đề tài của nhóm tác giả đã được Sở KH&CN TPHCM nghiệm thu. Nhóm tác giả có thể chuyển giao quy trình sản xuất các sản phẩm trên cho doanh nghiệp có nhu cầu.
Thạch Thảo