Một số đặc điểm lâm học của loài Tràm gió mọc tự nhiên tại Trung tâm thực hành và Nghiên cứu lâm nghiệp cơ sở Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế
Tràm gió là loài cây bản địa gỗ lớn thường xanh đa dụng, thuộc họ Sim, có phạm vi phân bố rộng từ miền Trung để các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu cây tràm gió mọc tự nhiên ở Trung tâm Thực hành và Nghiên cứu Lâm nghiệp cho thấy nó có thể phân bố và sinh trưởng trên đất phèn, nghèo dinh dưỡng và bị úng nước nhưng không có khả năng sinh trưởng trên vùng đất ngập nước.
Tràm gió là loài cây bản địa đa tác dụng, đa sinh thái, có giá trị về mặt kinh tế lấy gỗ, vỏ và tinh dầu. Ở Việt Nam, cây tràm gió phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam từ Huế vào đến tận các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tinh dầu tràm Huế đã tồn tại, sử dụng hàng trăm năm nay và trở thành thương hiệu một đặc sản địa phương, mỗi năm đóng góp cho tỉnh nhà hàng chục tỷ đồng. Đến nay, diện tích tràm tự nhiên suy giảm nhanh chóng do nhu cầu sử dụng tinh dầu tràm tăng, phương pháp quản lý, khai thác và phát triển cây tràm gió tự nhiên chưa phù hợp. Với những giá trị của cây tràm gió mang lại và nhu cầu sản phẩm tinh dầu ngày càng cao trong khi đó diện tích rừng tràm gió tự nhiên lại bị thu hẹp và nguồn nguyên liệu để sản xuất tinh dầu trở nên khan hiếm. Nguyên nhân do người dân tự do khai thác không đúng kỹ thuật, cắt cành non khiến cây không phát triển và chết. Bên cạnh đó diện tích phân bố tự nhiên cây tràm gió bị khai thác, sử dụng và chuyển sang mục đích sử dụng khác như dự án mía đường KCP Ấn Độ giai đoạn 1995-2000 nên người dân phá cây tràm gió tận gốc. Sau khi dự án mía đường thất bại, người dân chuyển đổi sang trồng cây keo. Đây là những nhân tố chủ yếu dẫn đến sự suy thoái diện tích và chất lượng cây tràm gió tự nhiên ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Tính đến năm 2022, có tổng diện 3.500 m2rừng tràm gió phân bố tự nhiên tập trung và mọc rải rác tại cơ sở Hương Vân hiện nay còn sót lại. Đây là diện tích tràm gió tự nhiên được bảo vệ, tác động các biện pháp lâm sinh và chăm sóc từ năm 2006 để duy trì và phát triển. Có thể nói, đây là một trong những số ít diện tích rừng tràm gió tự nhiên tập trung được bảo vệ và phát triển tốt, cây có kích thước lớn, có ý nghĩa trong phụcvụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Để đánh giá đặc điểm lâm học của cây tràm gió, nghiên cứu tiến hành các nội dung như sau: (1) Đặc điểm hình thái thân, vỏ, rễ, lá, hoa và quả; (2) Đặc điểm sinh thái bao gồm đặc điểm tái sinh, tình hình cây bụi, thảm tươi và đất nơi có loài tràm phân bố; và (3) Tình hình sinh trưởng, cấu trúc tầng thứ, mật độ và mạng hình phân bố của cây tràm gió trong lâm phần. Nghiên cứu được thực hiện tại Rừng tràm gió mọc tự nhiên ở Trung tâm Thực hành và Nghiên cứu Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế được chăm sóc, quản lý, bảo vệ từ năm 2006 đến 2022.
Kết quả cho thấy Rừng tràm gió có cấu trúc đơn ưu, độ tàn che chỉ đạt 0,1 và có 11 loài cây bụi, thảm tươi chủ yếu sống dưới tán rừng. Mật độ rừng tràm gió rất thấp và chỉ đạt 2.500 cây/ha. Hình thức tái sinh rừng tràm gió phổ biến là tái sinh sinh dưỡng chiếm tỷ lệ đến 85,0% tổng số cây con tái sinh trong lâm phần và mật độ cây tái sinh chỉ đạt 744,4 cây/ha. Cây tràm gió 16 năm tuổi có chỉ tiêu sinh trưởng bình quân về HVN, D1.3và DTtheo lần lượt là 6,97 m, 5,40 cm, 0,68 m và tổng sinh khối rừng đạt bình quân 50,1 tấn/ha. Thời gian úng nước trong năm có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng, phát triển và tái sinh của cây tràm gió. Trong đó, trên các vùng đất phèn có thời gian úng nước dưới 4 tháng cho sinh trưởng tốt nhất về chiều cao (8,71 m), đường kính (6,5 cm), đường kính tán (0,81 m) cũng như mật độ cây tái sinh (1.067 cây/ha) và sinh khối của rừng (84,168 tấn/ha).
Cần nghiên cứu những biện pháp kỹ nuôi dưỡng rừng, xúc tiến tái sinh tự nhiên và kỹ thuật làm đất để trồng cây tràm gió trên khu vực nghiên cứu.
Theo tapchidhnlhue.vn - Tập 7(2) 2023