SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Sử dụng dấu ấn miễn dịch trong việc định typ ung thư biểu mô tuyến vú

[13/07/2023 10:39]

Nghiên cứu do tác giả Nguyễn Thị Giang An - Trường Sư phạm, Trường Đại học Vinh, Việt Nam thực hiện.

Ảnh minh họa

Ung thư vú là một bệnh phổ biến và có ý nghĩa đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu và ở Việt Nam. Theo Dữ liệu GLOBOCAN 2020, ung thư vú ảnh hưởng đến hơn 2,2 triệu cá nhân trên toàn thế giới, dẫn đến khoảng 680.000 người chết. Ở Việt Nam, ung thư vú chiếm tỷ lệ phần đáng kể, chiếm 25,8% của tất cả các trường hợp ung thư ở nữ, với hơn 21.500 ca mắc mới và 9.345 tử vong. Xu hướng gần đây cho thấy sự gia tăng dần dần trong tỷ lệ mắc ung thư vú ở Việt Nam. Chẳng hạn, Nguyễn Nghiên cứu của Bá Đức tại Hà Nội quan sát thấy tăng từ 20,3 trên 100.000 phụ nữ năm 1998 lên 29,7 trên 100.000 trong thời kỳ giai đoạn 2001-2004. Tương tự, một nghiên cứu khác của Nguyễn Chấn Hùng ở Việt Nam ghi nhận sự gia tăng từ 151,4 trên 100.000 vào năm 2018.

Trong chẩn đoán ung thư, mô học thông thường sử dụng nhuộm HE được sử dụng rộng rãi được coi là tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, chẩn đoán mô học chỉ dựa trên tế bào hình thái và cấu trúc mô có thể không tính đến các biến thể về nguồn gốc tế bào trong khối u. Ngoài ra, ung thư vú được đặc trưng bởi sự đa dạng đáng kể trong các loại tế bào, mỗi người hiển thị các phản ứng riêng biệt đối với phương pháp điều trị bằng thuốc. Hóa mô miễn dịch (IHC) hợp nhất các lĩnh vực miễn dịch học và mô học để giải quyết những thách thức này. IHC kỹ thuật cho phép xác định sự biểu hiện hoặc vắng mặt của kháng nguyên trong các mô, đánh giá tình trạng kháng nguyên ở cấp độ tế bào và định vị các kháng nguyên trong tế bào. Hiện nay, IHC đã trở nên phổ biến và đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá dấu ấn sinh học trong ung thư, xác định nguồn gốc tế bào và sự biệt hóa mô, và phục vụ như một công cụ có giá trị để chẩn đoán xác định bệnh ung thư, dự đoán đáp ứng điều trị và tiên lượng.

Mẫu mô nhúng paraffin lưu tại Khoa Giải phẫu bệnh, Nghệ Bệnh viện Ung Bướu.

Các mẫu được chuẩn bị bằng cách nhúng chúng vào parafin và sau đó được cắt thành các lát dày 3 µm. Những lát cắt này được gắn trên các phiến kính và được nhuộm bằng hematoxylin và eosin (HE) (Sheehan D.C. và Hrapchak, 1980).

Ung thư vú (UTV) là một trong những loại ung thư chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và đa dạng về thể loại. Bởi thế, rất khó xác định được phát đồ điều trị cụ thể. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch là sự kết hợp giữa miễn dịch và mô học.Thành tựu của nó đã giúp bác sĩ xác định được các thụ thể đặc trưng trên bề mặt tế bào ung thư. Đây chính là cơ sở để hướng phác đồ điều trị phù hợp và tiên lượng cho bệnh nhân.

Kết quả khảo sát sát trên 75 mô bệnh phẩm cho thấy có sự đa dạng trong thể loại ung thư biểu mô tuyến vú nhưng phổ biến là thể lòng ống thâm nhập chiếm73,3%. Sử dụng các maker miễn dịch trên các mô bệnh phẩm này, kết quả sự biểu hiện của các marker ER, PR và Her 2/neu lần lượt là 29,2%, 52% và 22,7%. Phân loại ung thư vú theo bộ ba marker cho thấy, tỷ lệ bộ ba ER/PR+HER2- chiếm 24%. Nhóm ER-/PR+ HER2- chiếm 18,7%. Nhóm ER+/PR+HER2+, nhóm ER-/PR+HER2+ và nhóm ER-PR+ Her2+ đều chiếm 12%. Nhóm ER-/PR-HER2+HER2+ chiếm 8%, Bên cạnh đó xuất hiện nhóm mà cả 3 marker đều âm tính chiếm 22,7%. Estrogene và progesterone có mối tương quan thuận vừa với nhau ( 0< r=0,445 < 0,5; p < 0,05). Her-2/neu biểu hiện với những khối u có ER âm tính nhưng chưa có ý nghĩa về mặt thống kê với p>0,05 (tương quan thuận nghịch với r = -0,016).

Tạp chí Khoa học, Đại học Vinh, Tập 52, Số 2A, 06/2023
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ