Nghiên cứu tác dụng của thuốc axit tranexamic đối với truyền máu trong phẫu thuật cắt hoại tử bỏng sớm
Nguồn Minerva Anestesiologica 2017 April;83(4)
Nghiên cứu do tác giả Hoàng Văn Tú lược dịch.
Ảnh minh họa
Kỹ thuật cắt bỏ hoại tử bỏng sớm được áp dụng rộng rãi trong điều trị vết thương bỏng sâu và thường liên quan đến truyền máu để bổ sung lượng mất máu cấp trong phẫu thuật. Nghiên cứu này nhằm xác định tác dụng của thuốc axit tranexantic đối với số lượng máu cần phải truyền ở bệnh nhân bỏng.
Nghiên cứu đã được hội đồng y đức của bệnh viện, sử dụng phương pháp hồi cứu trên bệnh nhân điều trị từ 2008 đến 2011. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân có diện tích bỏng chung ≥20% diện tích cơ thể, được phẫu thuật từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 sau khi bị bỏng. Nhóm bệnh nhân nghiên cứu sử dụng axit tranexantic theo quy trình sau: Trước phẫu thuật 15 phút, bệnh nhân được truyền axit tranexantic liều khởi đầu 10 mg/kg trong 5 phút, sau đó được duy trì truyền liên tục trong mổ liều 1 mg/kg/h cho đến khi kết thúc phẫu thuật. Nhóm chứng là bệnh nhân được lấy trước nhóm nghiên cứu ở cùng khoa.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân dưới 18 tuổi, có rối loạn đông máu, bệnh nhân chống chỉ định với axit tranexantic như bị huyết khối, động kinh, suy thận.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu trên 2 nhóm bệnh nhân có diện tích bỏng trên 20% diện tích cơ thể vào khoa phẫu thuật. Phân tích số lượng máu phải truyền bù cho bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật và sau phẫu thuật 24 giờ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trên 107 bệnh nhân trong đó có 48,6% (52 bệnh nhân) được truyền thuốc axit tranexantic trong suốt quá trình cắt hoại tử bỏng lần đầu tiên ở bệnh nhân. Thuốc axit tranexantic làm giảm lượng máu truyền trong phẫu thuật là 24,2% (CI 95%: 7,1-41,4%). Bệnh nhân được dùng thuốc axit tranexantic chỉ cần dùng 1,6 đơn vị hồng cầu khi truyền máu chu phẫu trong khi nhóm chứng phải dùng 2,6 đơn vị với p = 0,017. Sử dụng thuốc axit tranexantic trong phẫu thuật khi cắt hoại tử bỏng sớm ở bệnh nhân bỏng làm giảm số lần và số lượng máu phải truyền.
Tạp chí y học, Tập. 528 Số. 2(2023)