Giải pháp quản lý, sử dụng tài nguyên nước ứng phó với biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến nguồn tài nguyên nước ở Việt Nam. Những năm gần đây, nguồn tài nguyên nước của Việt Nam đang ngày càng khan hiếm, suy giảm cả về số lượng và chất lượng, kèm theo đó hạn hán và lũ lụt xảy ra gay gắt ở cả quy mô, mức độ và thời gian, trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng và đó chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng về nước. Trước thực trạng tài nguyên nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu, bài viết đề xuất các biện pháp khai thác, sử dụng tài nguyên nước bền vững và bảo vệ tài nguyên nước hiệu quả, giúp giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu, và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu gây ngập lụt nặng nề ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Thực trạng tài nguyên nước Việt Nam
Theo Báo cáo tài nguyên nước quốc gia giai đoạn 2016-2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên, trong đó 405 sông, suối liên tỉnh; 3.045 sông, suối nội tỉnh. Tổng lượng dòng chảy hằng năm khoảng 844 tỷ m3, chủ yếu tập trung vào mùa mưa (3-5 tháng), mùa khô (từ 7-9 tháng), chiếm 20-30% lượng dòng chảy năm. Mặt khác, dòng chảy hằng năm phân bố không đều, chủ yếu trên lưu vực sông Cửu Long (khoảng 56%), lưu vực sông Hồng - Thái Bình (khoảng 18%), còn lại ở các lưu vực sông khác. Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam là các sông xuyên biên giới.
Nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài, tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam khoảng 504 tỷ m3, chiếm 60% tổng lượng dòng chảy của các sông của nước ta, cụ thể: Đồng bằng sông Cửu Long có tới 95% tổng lượng nước là từ nước ngoài (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia) chảy vào và ở lưu vực sông Hồng - Thái Bình có gần 40% tổng lượng nước là từ Trung Quốc. Trong các năm gần đây, các quốc gia ở thượng nguồn đã và đang đẩy mạnh việc xây dựng công trình thủy điện trên lưu vực sông Mê Kông và sông Hồng đã và đang là nguy cơ trực tiếp làm suy giảm nguồn nước chảy vào Việt Nam, đe dọa an ninh nguồn nước. Bên cạnh đó, việc gia tăng khai thác sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn còn có nguy cơ gây ô nhiễm, thiếu hụt phù sa ở hạ lưu, tác động đến hệ sinh thái, suy thoái nguồn nước.
Nguồn nước của nước ta phân bố không đều theo không gian và thời gian. Toàn bộ phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến TP Hồ Chí Minh, nơi có 80% dân số và trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ có gần 40% lượng nước của cả nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Lượng nước trong 3-5 tháng mùa lũ chiếm tới 70-80%, trong khi đó 7-9 tháng mùa kiệt chỉ xấp xỉ 20-30% lượng nước cả năm. Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn, trung bình cứ 100 năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung bình nêu trên.
Cùng với đó, hiệu quả khai thác sử dụng nước trong các ngành còn thấp: tỷ lệ thất thoát cho cấp nước sinh hoạt còn ở mức cao (khoảng 25%), công suất khai thác nước thực tế còn thấp hơn rất nhiều so với năng lực thiết kế, nhất là đối với các hệ thống công trình thủy lợi (chỉ ở mức 50-90% tùy theo từng khu vực và tùy hệ thống, như: hiệu quả lấy nước của hệ thống công trình thủy lợi, hiệu quả phát điện các công trình thủy điện có xu hướng giảm, làm gia tăng thách thức đối với an ninh tài nguyên nước trên trên lưu vực sông Hồng).
Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước
Biến đổi khí hậu đang tác động trực tiếp và sâu sắc đến tài nguyên nước của Việt Nam, làm thay đổi vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên, từ đó gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan, làm giảm chất lượng, suy thoái nguồn nước, gia tăng xâm nhập mặn và nước biển dâng. Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam năm 2016, mực nước trung bình toàn Biển Đông biến đổi với tốc độ khoảng 0,6-4,05 mm/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trung bình toàn cầu trong cùng giai đoạn (0,08-3,25 mm/năm). Tính trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển tăng khoảng 0,7±3,50 mm/năm. Khu vực ven biển Trung bộ tăng mạnh nhất với tốc độ tăng khoảng trên 4 mm/năm, trong đó lớn nhất tại khu vực ven biển Nam Trung bộ với tốc độ tăng đến trên 5,6 mm/năm; khu vực ven biển vịnh Bắc bộ có mức tăng thấp hơn, khoảng 2,5 mm/năm. Cũng theo kịch bản, nếu nước biển dâng 1 m, khoảng 17,57% diện tích Đồng bằng sông Hồng, 1,47% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,84% diện tích TP Hồ Chí Minh và 4,79% diện tích tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nguy cơ bị ngập; Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao nhất với 38,90% diện tích.
Nguồn nước mùa khô có xu hướng suy giảm, cạn kiệt nguồn nước kéo dài hơn, nhiều khu vực nước ngọt cũng sẽ bị xâm nhập mặn, ô nhiễm gia tăng do dòng chảy không còn khả năng tự làm sạch, khả năng chống chọi với thiên tai, trong đó có hạn hán sẽ tạo ra thách thức lớn đối với bảo đảm an ninh về nước. Mùa khô năm 2019-2020, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn với ranh giới 4 g/l là 1.688.600 ha, chiếm 42,5% diện tích tự nhiên toàn vùng, cao hơn năm 2016 là 50.376 ha. Cà Mau là địa phương bị ảnh hưởng nặng nhất với diện tích 16.500/176.700 ha diện tích gieo trồng trong vụ mùa bị ảnh hưởng, trong đó diện tích bị thiệt hại trắng từ 70% trở lên là 14.000 ha. Đối với vụ đông xuân 2019-2020, ở Đồng bằng sông Cửu Long có 6 tỉnh (Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An và Cà Mau) bị ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn với tổng diện tích khoảng 41.900 ha, trong đó, có 26.000 ha thiệt hại mất trắng và Trà Vinh là tỉnh có diện tích thiệt hại nhiều nhất với 14.300 ha.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, hiện tượng xói lở bờ sông thường xuyên xảy ra và có những diễn biến phức tạp cả về phạm vi và quy mô, tình trạng sạt lở bờ sông, kênh rạch, bờ biển xảy ra ở hầu hết địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đe dọa trực tiếp đến an toàn của nhiều khu dân cư, công trình hạ tầng ven sông, ven biển, nhất là tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Bạc Liêu…
Đề xuất giải pháp
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp cần triển khai như sau:
Thứ nhất, tăng cường hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm cụ thể các chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/06/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045... Trên cơ sở đó, xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng quản lý thuộc lãnh thổ, theo lưu vực sông nội địa, sông liên quốc gia phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử và luật pháp quốc tế. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nguồn nước bảo đảm thống nhất, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương và sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp; rà soát, thống nhất đơn vị quản lý, khai thác thủy lợi vùng, quốc gia.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát, bảo vệ tài nguyên nước. Triển khai thực hiện quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; xây dựng kế hoạch sử dụng nước nhằm chủ động nguồn nước đối với các ngành, lĩnh vực. Đồng thời, cải thiện, phục hồi các dòng sông bị suy thoái, bảo vệ nguồn nước. Phục hồi nguồn thủy sinh, các hệ sinh thái ngập nước quan trọng, đảm bảo an ninh nước. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ các chất thải ra môi trường, đặc biệt là nước thải xả vào nguồn nước phải đạt quy chuẩn chất lượng nước phù hợp với chức năng của nguồn nước.
Thứ ba, nâng cao năng lực ứng phó tác động biến đổi khí hậu và các rủi ro khác liên quan đến tài nguyên nước: xây dựng và duy trì hệ thống cảnh báo, dự báo lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng và các tác hại khác do nước gây ra trên phạm vi cả nước; nâng cấp, bổ sung các trạm quan trắc khí tượng thủy văn, tài nguyên nước; xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống phòng, chống lũ quét, sạt lở đất theo tần suất thiết kế, hệ thống đê sông, đê biển đáp ứng được yêu cầu chống chịu mưa, lũ lớn, dài ngày kết hợp với các giải pháp khác, chủ động ứng phó hiệu quả với các tình huống thiên tai bất lợi; tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt nhằm khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán thiếu nước vào mùa khô của các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các hải đảo. Hoàn thành việc xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du đối với các hồ chứa.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia đảm bảo các bộ, ngành, địa phương cập nhật các chỉ tiêu an ninh nguồn nước thuộc phạm vi quản lý trên nền tảng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến theo chuẩn mực chung của quốc tế và đáp ứng mục tiêu xây dựng Chính phủ số. Chủ động kế hoạch sử dụng nước trên sông xuyên biên giới trên cơ sở giám sát, hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước trong việc chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc, vận hành khai thác nguồn nước; thúc đẩy, tăng cường kết nối Ủy hội sông Mê Kông quốc tế với các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Kông nhằm thu hút sự ủng hộ từ bên ngoài trong nỗ lực đảm bảo phát triển bền vững, tăng cường trách nhiệm trong sử dụng nguồn nước.
Cuối cùng, phát huy vai trò các phương tiện thông tin đại chúng trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về các chủ trương, chính sách và pháp luật về an ninh nguồn nước; duy trì nội dung giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên nước trong hệ thống giáo dục…; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí nguồn nước.