Kết quả bước đầu sử dụng giá đỡ lòng mạch tạm thời trợ giúp nút phình mạch não bằng vòng xoắn kim loại
Nghiên cứu do các tác giả Nguyễn Ngọc Cương và Đoàn Tiến Lưu từ Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội thực hiện nhằm phát triển phương pháp điều trị phình mạch não hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Can thiệp nút mạch não bằng vòng xoắn kim loại (coil) đã được chứng minh là một phương pháp điều trị hiệu quả cho phình động mạch não. Tuy nhiên, trong các kỹ thuật hỗ trợ hiện có, bóng chẹn cổ túi phình thường gặp phải những hạn chế như gián đoạn dòng chảy và nguy cơ huyết khối. Để khắc phục vấn đề này, stent tạm thời Comaneci đã được phát triển với mục tiêu ổn định vi ống thông, bảo vệ cổ túi phình và duy trì dòng chảy trong quá trình can thiệp.
Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp hồi cứu tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Can thiệp Điện quang, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 8 năm 2024. Tổng cộng 13 bệnh nhân phình động mạch não với cổ rộng (đáy/cổ < 1,2 hoặc cổ lớn hơn đường kính động mạch mang) tham gia vào nghiên cứu, bao gồm cả can thiệp cấp cứu và chọn lọc. Trong quá trình điều trị, stent Comaneci (Rapid Medical, Israel) được sử dụng kết hợp với coil để đạt hiệu quả tối ưu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cả 13 bệnh nhân (tuổi trung bình 59,8) đều đã có can thiệp thành công. Vị trí túi phình chủ yếu được ghi nhận ở động mạch thông sau (7/13 trường hợp). Tỷ lệ tắc hoàn toàn túi phình đạt 100% theo tiêu chí Raymond-Roy độ 1 và 2. Kích thước trung bình của túi phình là 9,58 mm (với kích thước lớn nhất là 22 mm và nhỏ nhất là 3 mm), trong khi cổ túi phình có kích thước trung bình là 3,94 mm. Mặc dù có 2 bệnh nhân gặp biến chứng nhẹ (lồi coil nhưng không ảnh hưởng đến dòng chảy), không có trường hợp nào gặp biến chứng dẫn đến tử vong hay tàn tật. Kết quả này khẳng định stent tạm thời Comaneci là một phương pháp hỗ trợ an toàn và hiệu quả trong can thiệp nút mạch não bằng coil, đặc biệt đối với túi phình cổ rộng, góp phần mở ra tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng.
Tạp chí Y học Việt Nam -Tập 548, Số 1 (2025)