Những phòng thí nghiệm trọng điểm có thực lực như Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc và hóa dầu đã có những kết quả nghiên cứu chín muồi sẵn sàng để triển khai phục vụ cho nền kinh tế và xã hội, nhưng một rào cản rất lớn hiện nay là Nhà nước chưa có cơ chế pháp lý cần thiết cho việc triển khai ứng dụng các sản phẩm nghiên cứu có sử dụng kinh phí của Nhà nước.
PGS.TS Vũ Thị Thu Hà, giám đốc Phòng thí nghiệm
trọng điểm Công nghệ lọc và hóa dầu
Nói tới các
phòng thí nghiệm do Nhà nước đầu tư, người ta ít nhiều thường có sự lo ngại,
nghĩ đến hiệu quả đầu tư vì sợ trang thiết bị mua về rồi ‘đắp chiếu’ để đấy.
Tuy nhiên, với Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc và hóa dầu, chủ trì
bởi Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam (Viện HHCNVN) thì mức độ khai thác sử
dụng các trang thiết bị lên tới 90%, theo khẳng định của PGS.TS. Vũ Thị Thu Hà,
Giám đốc của đơn vị kiêm Phó Viện trưởng Viện HHCNVN. Những hoạt động nghiên
cứu được tiến hành liên tục và miệt mài nơi đây đã giúp đem về cho đơn vị nhiều
kết quả đáng tự hào, cụ thể tiêu biểu là 8 bài báo công bố quốc tế, 1 bằng độc
quyền Giải pháp hữu ích của Việt Nam, 1 bằng độc quyền sáng chế quốc tế (ngoài Việt
Nam đã được đăng ký tại Mỹ, châu Âu, và Brazil), 4 giải thưởng về KHCN và rất
nhiều những nhiệm vụ khoa học công nghệ khác với các cấp Nhà nước được đơn vị
hoàn thành.
Một quá trình phát
triển đã chín muồi
Có được những thành tựu
phong phú và đáng kể như vậy trong khi đội ngũ nhân lực xuất phát điểm lúc ra
đời năm 2003 chỉ có 5 thành viên, yếu tố quan trọng nhất phải kể đến là những
nỗ lực theo đuổi một chiến lược phát triển thật sự đúng đắn và bài bản, đó là
lấy con người làm trung tâm, luôn chú trọng đầu tư chuẩn bị thật đầy đủ về con
người trước khi đầu tư cho các nguồn lực khác. Đến nay, đơn vị đã có 36 người,
với trụ cột chính là PGS. TS. Vũ Thị Thu Hà, người từng đoạt giải thưởng
Kovalevskaia năm 2011.
Từng tốt nghiệp tiến sĩ ở
Pháp năm 1999, chị Hà đã không ngừng tạo những mối liên kết hợp tác giữa đơn vị
với các chuyên gia, tổ chức khoa học nước ngoài. Cũng nhờ một trong những mối
liên kết như vậy đã đem đến cơ hội giúp đơn vị nghiên cứu và đăng ký thành công
bằng sáng chế quốc tế đầu tiên, trong đó 50% thuộc sở hữu của đơn vị, 50% thuộc
đối tác Pháp. Sắp tới, đơn vị sẽ tiếp tục phát triển sâu hơn nữa mối quan hệ
hợp tác với các đối tác Pháp để mở ra một phòng thí nghiệm liên kết quốc tế
hoạt động trực tuyến, qua đó sẽ giúp đơn vị tăng cường mạnh mẽ cơ hội đào tạo người
ở Pháp, số lượng công bố quốc tế, và sự giao lưu hợp tác với các chuyên gia
quốc tế.
Tuy nhiên, sau những nỗ
lực phấn đấu phát triển không ngừng trong gần 10 năm qua, Phòng thí nghiệm
trọng điểm Công nghệ lọc và hóa dầu không tự thỏa mãn dừng lại ở những giải
thưởng KHCN, những bằng sáng chế trong nước và quốc tế, mà còn mong muốn được
tiến hành triển khai ứng dụng những nghiên cứu đã chín muồi này vào thực tế.
Điều này là hoàn toàn khả thi về mặt kỹ thuật, và một số sản phẩm và công nghệ
của đơn vị hiện nay đã có sẵn những địa chỉ ứng dụng cụ thể, đơn cử như sản
phẩm hydroxit nhôm – hiện đã có đối tác Nhật sẵn sàng vào đầu tư liên doanh,
đồng thời bao tiêu luôn cả đầu ra – mà hiện nay ở Việt Nam đang phải nhập khẩu
hoàn toàn. Và không chỉ làm ra các sản phẩm công nghiệp, đơn vị còn có khả năng
nghiên cứu xây dựng cả những dây chuyền công nghệ, ví dụ như công nghệ sản xuất
sorbitol đã được sản xuất thử nghiệm từ 2003 tới 2010, dự kiến được dùng trong
dự án nhà máy sản xuất sorbitol quy mô 30.000 tấn/năm tại Tây Ninh do Tập đoàn
Hóa chất làm chủ đầu tư.
Việc triển khai những ứng dụng
như vậy sẽ giúp công việc nghiên cứu của đơn vị có sự cọ xát, gắn kết, và phản
hồi từ thực tiễn đời sống để cho ra những kết quả nghiên cứu hoàn thiện hơn,
đáp ứng tốt hơn những nhu cầu thiết thực của thị trường, các ngành công nghiệp,
và xã hội, chưa kể còn đem lại nguồn thu giúp đơn vị chủ động mở rộng hơn nữa
hoạt động và quy mô nghiên cứu.
Nút thắt cần tháo
gỡ
Nhưng bên cạnh đó, các kết
quả nghiên cứu không chỉ là sản phẩm từ công sức lao động trí tuệ của tập thể
các chuyên gia và cán bộ của đơn vị, mà còn nhờ vào nguồn kinh phí đầu tư nhiều
tỷ đồng của Nhà nước. Cụ thể là Nhà nước đã đầu tư cho Phòng thí nghiệm trọng
điểm Công nghệ lọc và hóa dầu 67 tỷ đồng để gây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồng thời nguồn chi phí thường xuyên cũng không nhỏ (riêng chi phí
sửa chữa hoặc thay thế mỗi chi tiết thiết bị có thể tốn kém tới hàng trăm triệu
đồng), từ năm 2008 tới nay trung bình mỗi năm đơn vị được cấp chi 1,5 tỷ đồng. Ngoài
ra, đơn vị còn nhận được nguồn kinh phí từ các đề tài nghiên cứu KHCN các cấp
của Nhà nước thông qua đấu thầu, có năm lên tới hàng chục tỷ đồng, PGS.TS. Vũ
Thị Thu Hà cho biết.
Như vậy, có thể nói rằng
những sản phẩm nghiên cứu của Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc và hóa
dầu cũng đồng thời là một tài sản của Nhà nước, và những đối tượng muốn khai
thác các sản phẩm nghiên cứu này sẽ cần trả lại cho Nhà nước phần chi phí mà
Nhà nước đã bỏ ra. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước vẫn chưa quy định rõ ràng về
một cơ chế cho phép các cá nhân và tổ chức KHCN triển khai thương mại hóa các
kết quả nghiên cứu có sử dụng kinh phí của Nhà nước, thiếu quy định hướng dẫn cho
biết liệu có phải hoàn trả phần kinh phí này cho Nhà nước hay không, nếu có thì
cách tính ra sao.
Do thiếu những quy định
như trên nên những nghiên cứu KHCN dùng kinh phí Nhà nước dù có địa chỉ ứng
dụng vẫn chưa thể được thương mại hóa. Đây là một sự lãng phí to lớn cho xã
hội, là thiệt thòi cho các nhà khoa học và các tổ chức KHCN, đồng thời là sự
cản trở sự phát triển lành mạnh của KHCN theo xu hướng gắn kết với những nhu
cầu kinh tế xã hội trong thực tiễn. Và điều bất cập nữa là, trong khi chưa hóa
giải nút thắt đầu ra này, thì ở đầu vào hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng khác vẫn
đang tiếp tục được Nhà nước đầu tư vào các nghiên cứu ứng dụng KHCN.
Những bất cập to lớn
này không chỉ trong phạm vi quản lý của Bộ KH&CN mà còn trực tiếp liên quan
đến Bộ Tài chính trong lĩnh vực quản lý công sản, và có thể liên quan đến nhiều
Bộ ngành khác có phạm vi quản lý tương ứng với những lĩnh vực ứng dụng của các
sản phẩm KHCN vì mỗi lĩnh vực có thể sẽ cần một chính sách và mức độ ưu đãi
riêng – ví dụ như những sản phẩm thay thế nhập khẩu như hydroxit nhôm của Phòng
thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc và hóa dầu là loại sản phẩm cần được ưu đãi
đặc biệt – và tùy theo mức độ ưu đãi này mà Nhà nước cần đặt ra quy định mức
hoàn trả chi phí cao hay thấp tương ứng. Vì vậy, để có được những quy định
hướng dẫn cụ thể và rõ ràng sẽ cần một sự vào cuộc tích cực của các Bộ ngành,
và trước mắt là một chủ trương quyết liệt từ Quốc hội và Chính phủ.