Để người làm khoa học sống được bằng nghề
Làm thế nào để người làm khoa học và nhất là các nhà khoa học trẻ có được môi trường làm việc thuận lợi và có thể sống được bằng sản phẩm trí tuệ do mình làm ra là nội dung được nhiều nhà khoa học trẻ quan tâm và đặt ra với BỘ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGUYỄN QUÂN trong khuôn khổ chương trình Gặp gỡ toàn quốc tài năng trẻ khoa học và công nghệ Việt Nam 2012 vừa diễn ra tại Bộ Khoa học và Công nghệ.
- Thưa Bộ trưởng, cán
bộ khoa học trẻ luôn đầy nhiệt huyết với khoa học nhưng đời sống và nhất là môi
trường nghiên cứu của họ còn gặp nhiều khó khăn. Bộ trưởng có thể cho biết
những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cuộc sống và môi trường nghiên
cứu cho cán bộ khoa học nói chung và cán bộ khoa học trẻ nói riêng?
Bộ trưởng Nguyễn
Quân: Hiện nay, trong chế độ tiền lương, lương cho giới khoa học là
thấp nhất, không có phụ cấp. Trong khi đó, chỉ có 10% các nhà khoa học có đề
tài, kể cả đề tài cấp cơ sở và cấp nhà nước. Ở cấp cơ sở, tiền đề tài rất thấp,
có khi không đủ để họp mấy hội đồng chứ chưa nói làm nghiên cứu. Đề tài cấp nhà
nước, kinh phí có lớn hơn nhưng rất ít người làm khoa học có đề tài này. Cho
nên, làm thế nào để cán bộ khoa học sống được với nghề là bài toán rất nan giải
đặt ra hiện nay. Tất nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta không thể “đòi”
nâng lương cho nhà khoa học gấp 2 - 3 lần được. Tuy nhiên, trước khi nghĩ tới
những đãi ngộ về vật chất, cần cố gắng tạo ra một môi trường làm việc, điều
kiện làm việc tốt nhất để cho các nhà khoa học có thể sống được bằng nghề.
Trong Luật Khoa học và
Công nghệ (sửa đổi) lần này có một nội dung rất quan trọng là giao quyền sở hữu
kết quả khoa học có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho tập thể và cá nhân tác
giả. Khi đã được giao quyền sở hữu, nhà khoa học có thể bán, chuyển nhượng tài
sản trí tuệ đó cho doanh nghiệp hoặc có thể dùng tài sản đó góp vốn vào doanh
nghiệp dưới dạng cổ phần hay dùng quyền sở hữu tài sản trí tuệ đó như vốn pháp
định để thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ (KHCN). Khi đó nhà khoa học
có thể sống được với sản phẩm sáng tạo của mình.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã
đề nghị nhà nước trọng dụng 3 nhóm đối tượng các nhà khoa học, bao gồm: các nhà
khoa học đầu ngành; các nhà khoa học được nhà nước giao nhiệm vụ và các nhà
khoa học thực sự có tài năng (được giải thưởng khoa học trong nước, quốc tế, có
những công bố, sáng chế quốc tế) để làm tiền đề cho việc trọng dụng rộng hơn
sau này. Mức độ ưu đãi 3 đối tượng này khác nhau, nhưng quan trọng nhất là
những nhà khoa học ấy sẽ được sống trong một môi trường làm việc thuận lợi
nhất. Làm sao để có hội thảo, hội nghị quốc tế về vấn đề mà nhà khoa học quan tâm
thì có thể đi được ngay. Hoặc là được giao một việc, nhà khoa học có thể mời
những người cùng chí hướng, cùng trình độ về làm việc với mình. Hoặc là những
người ấy được nhà nước cho họ quyền có thể thuê chuyên gia nước ngoài đến để
chuyển giao công nghệ, cùng nghiên cứu. Có như thế chúng ta mới có thể làm được
những dự án khoa học lớn.
- Bộ Khoa học và Công
nghệ đã có những định hướng và giải pháp như thế nào để gắn kết nghiên cứu với
sản xuất, kinh doanh, giữa các nhà khoa học và doanh nghiệp, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn
Quân: Chúng ta biết nếu nghiên cứu mà không được ứng dụng thì chắc
chắn là “bỏ ngăn kéo”. Chúng ta vẫn mang tiếng xấu là yếu kém, nhiều nghiên cứu
bị “bỏ ngăn kéo”, mặc dù thực tế không hẳn là như vậy. Chúng tôi cho rằng, “bỏ
ngăn kéo” cũng có 3 loại. Một loại là nghiên cứu đi trước thời đại. Loại thứ
hai là nghiên cứu xong thì không có nguồn lực để sử dụng. Tất nhiên có loại bỏ
ngăn kéo thật, tức là nghiên cứu xong thì thấy rằng việc ấy không bao giờ thành
công. Chưa kể đến những nghiên cứu mang tính chất lợi dụng hoặc cơ hội.
Việt Nam chúng ta là nước đi sau nên
loại nghiên cứu đi trước thời đại cũng không nhiều, nhưng loại nghiên cứu phải
tìm được nhà đầu tư để phát triển sản phẩm mới là khó, mới là quan trọng. Hiện
nay chúng ta đã xây dựng 11 chương trình quốc gia về khoa học công nghệ như
chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao, chương trình năng suất chất lượng, chương trình nông thôn, miền núi,
chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, chương trình đổi mới công nghệ
quốc gia, chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, chương trình hàng rào kỹ thuật
trong thương mại… Đây chính là môi trường để các nhà sản xuất và nghiên cứu có
thể gặp được nhau.
Trong hoạt động về thị
trường công nghệ, từ năm 2003 đến nay, chúng tôi thường xuyên tổ chức các Chợ
công nghệ và thiết bị (Techmart) quốc gia và khu vực. Đây là nơi các nhà khoa
học giới thiệu kết quả nghiên cứu của mình và là nơi doanh nghiệp tìm đến để
xem là kết quả nghiên cứu ấy có phù hợp với doanh nghiệp mình không để có thể
ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ, mua công nghệ và hỗ trợ đổi mới công
nghệ.
Trong hệ thống đề tài, dự
án của các chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà nước, chúng tôi cũng ưu tiên
các đề tài nói rõ địa chỉ ứng dụng sau khi hoàn thành và có các doanh nghiệp
cam kết ứng dụng các nghiên cứu.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp
KHCN đã được xác định từ khi có Nghị định 80/2007/NĐ-CP đến nay. Đây là doanh
nghiệp của những người làm khoa học và của những người ứng dụng kết quả khoa
học. Sản phẩm của nó chính là các kết quả của nghiên cứu khoa học do doanh
nghiệp được làm chủ sở hữu hoặc chủ sử dụng hợp pháp. Với doanh nghiệp KHCN,
con đường từ nghiên cứu đến sản xuất sẽ được rút ngắn bởi vì người nghiên cứu
đồng thời cũng là người sản xuất, sẽ giữ được bản quyền, giữ được bí quyết công
nghệ và được hưởng lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh kết quả nghiên cứu của
mình.
- Mô hình Quỹ Phát
triển KHCN quốc gia được đánh giá là một trong những mô hình đã giải quyết được
một số vấn đề khúc mắc, nâng cao chất lượng các sản phẩm KHCN. Bộ trưởng có thể
chia sẻ những định hướng sắp tới để nhân rộng quỹ này tại các sở, ban ngành,
địa phương?
Bộ trưởng Nguyễn
Quân: Mô hình Quỹ Phát triển KHCN là mô hình mới ở nước ta, được đưa
vào hoạt động từ năm 2008. Hiện nay, nhiều đề tài đã được các bộ, ngành hay địa
phương phê duyệt nhưng chờ hàng năm mới có tiền, ít nhiều làm nản lòng giới
khoa học. Nhưng cơ chế hoạt động của Quỹ lại khác, phê duyệt đề tài đến đâu,
Quỹ sẽ cấp tiền đến đó. Cơ chế chi tiêu của quỹ cũng rất thông thoáng, đồng
thời, định mức trong chi tiêu của Quỹ hiện nay cũng cao hơn rất nhiều hệ thống
cấp phát tài chính qua quy hoạch. Trong 4 năm vừa rồi, các công bố quốc tế trong
những đề tài dùng tiền của Quỹ đã tăng gấp 3 lần so với giai đoạn trước đây.
Trước đây, trung bình phải đến 3 - 4 đề tài mới có 1 công bố quốc tế trên các
tạp chí chuyên ngành có uy tín. Bây giờ, tỷ lệ ấy đã đảo ngược, tức là gần như
là 1 đề tài có thể có hơn 1 công bố quốc tế. Vì vậy, chúng tôi đang kiến nghị
với Chính phủ cho mở rộng mô hình của Quỹ này. Hiện nay, 20 tỉnh, thành phố và
nhiều bộ, ngành đã thành lập Quỹ Phát triển KHCN. Trong Luật Khoa học và Công
nghệ (sửa đổi) đang trình Quốc hội cho ý kiến, chúng tôi cũng kiến nghị bắt
buộc các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp cũng phải có Quỹ Phát triển
KHCN của mình.
Thời gian qua, nhiều tập
đoàn lớn như Viettel hay Tập đoàn Dầu khí đã đi đầu trong việc thành lập Quỹ
Phát triển KHCN của doanh nghiệp. Nhưng cơ chế tài chính hiện nay kiểm soát
chặt làm cho các tập đoàn trích rồi nhưng không tiêu được. Chúng tôi sẽ kiến
nghị để thay đổi cơ chế chi tiêu của quỹ này để các doanh nghiệp có thể tiêu
được tiền cho hoạt động KHCN.
- Trên trường quốc tế,
trình độ và năng lực nền khoa học quốc gia được đánh giá qua số các công bố
quốc tế các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín, nhưng
hiện nay, chúng ta có rất ít phát minh, sáng chế và các bài báo quốc tế. Thưa
Bộ trưởng, làm thế nào để tăng số lượng các bài báo quốc tế và các công bố quốc
tế để thế giới đánh giá đúng thực trạng của nền khoa học công nghệ nước ta?
Bộ trưởng Nguyễn
Quân: Hiện nay, trung bình mỗi năm có khoảng hơn 100 sáng chế của
người Việt Nam
đăng ký ở Cục Sở hữu trí tuệ. Con số này thấp so với nhiều nước khác, số lượng
các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học uy tín thế giới cũng không nhiều
nhưng cũng không phải là “đếm trên đầu ngón tay”. Tôi cho ở đây có nguyên nhân
là trình độ của đội ngũ cán bộ quả thật chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, cũng còn các
nguyên nhân khác. Nhiều đề tài cấp bộ, cấp nhà nước rất tốt nhưng không công bố
quốc tế hoặc đăng ký sáng chế được bởi không có nội dung kinh phí để thực hiện.
Lệ phí phải nộp để có bằng sáng chế không phải là ít, nếu đăng ký ở nước ngoài
còn cao hơn nữa. Bên cạnh đó, nếu muốn có bài báo quốc tế thì phải giỏi ngoại
ngữ, nhiều người làm khoa học rất giỏi nhưng ngoại ngữ chưa giỏi. Cho nên các
nhà khoa học chưa hào hứng với việc công bố quốc tế hay đăng ký sáng chế, chứ
không phải kết quả nghiên cứu của chúng ta không đủ tầm hay không đăng ký được.
Bên cạnh đó, xu hướng của
xã hội hiện nay là ít người làm nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu cơ bản
định hướng ứng dụng. Nếu không có nghiên cứu khoa học cơ bản thì làm sao có bài
báo quốc tế, có sáng chế được. Đây cũng là nguyên nhân của sự hạn chế việc đăng
ký sáng chế và công bố quốc tế.
Tôi đồng ý là chúng ta cần
có giải pháp để đẩy mạnh số lượng các bài báo, công bố quốc tế. Chỉ có điều,
với thu nhập bình quân GDP đầu người chỉ có 1.000 USD, đầu tư cho KHCN tính
theo đầu người dân chỉ có 10 USD/năm. Trong khi mức đầu tư cho KHCN tính theo
đầu người của Trung Quốc gấp hơn 4 lần, Hàn Quốc gấp 100 lần. Việc có đề tài
nghiên cứu để có bằng sáng chế, công bố quốc tế cũng là điều không đơn giản.
Nhưng dù ít, dù nhiều sẽ cố gắng. Sắp tới, chúng tôi không dàn trải việc phân
bổ kinh phí đều cho đề tài nghiên cứu mà tập trung làm một số công trình lớn,
dự án lớn để những dự án ấy phải có sản phẩm và trong số những sản phẩm ấy phải
có công bố quốc tế và đăng ký sáng chế. Đồng thời khuyến khích chế độ thưởng
cho các nhà khoa học có công bố quốc tế và có sáng chế.
- Xin cám ơn Bộ trưởng!
Theo http://truyenthongkhoahoc.vn (nthieu)