Phải có chính sách để thu hút cả xã hội đầu tư cho khoa học, công nghệ
Việc luôn dành 2% tổng ngân sách Nhà nước cho khoa học, công nghệ đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến lĩnh vực này. Nhưng có thể thấy, nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước thì sẽ khó tạo sự chuyển đổi căn bản cho lĩnh vực này. Thực tế, tại các quốc gia phát triển trên thế giới, nguồn lực ngoài Nhà nước mới chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng vốn đầu tư vào khu vực này.
Tỷ lệ trích từ tổng ngân sách dành cho
các nhiệm vụ khoa học, công nghệ ở nước ta thuộc diện cao trên thế giới. Song,
nếu chuyển sang con số thực tế thì vốn đầu tư cho công tác này khó có thể đáp
ứng nhu cầu của quá trình phát minh, sáng tạo và đưa vào ứng dụng trong cuộc
sống. Vì vậy, tại Tờ trình dự án Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi), Chính phủ
đã xác định việc sửa đổi các quy định hiện hành nhằm thực hiện được ba nhiệm vụ
then chốt mang tính đột phá trong hoạt động này gồm: tiếp tục đổi mới cơ bản,
toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý và cơ chế hoạt động khoa học, công
nghệ; tăng cường đầu tư của toàn xã hội cho khoa học, công nghệ, trước hết là
đầu tư vào hạ tầng khoa học và công nghệ; xây dựng chính sách sử dụng, trọng
dụng cán bộ khoa học và công nghệ. Nhưng, trong ba nhiệm vụ này thì nhiệm vụ
nào cần được thực hiện trước hết? Nhiệm vụ nào thực hiện thành công sẽ tạo động
lực để thực hiện thành công những nhiệm vụ khác? Có quan điểm cho rằng, thực tế
thực hiện các nhiệm vụ khoa học, công nghệ đang đòi hỏi phải thay đổi công tác
quản lý, tổ chức. Hiện nay, kinh phí được cấp chủ yếu cho chi thường xuyên, theo
phương thức bình quân chủ nghĩa đã khiến các đơn vị khoa học không có đủ nguồn
lực để làm một công trình ra tấm, ra món, chưa nói đến tạo ra sản phẩm trọng
điểm quốc gia. Còn nhà khoa học mong mỏi nhất là có một cơ chế tài chính thông
thoáng để họ không phải chờ quá lâu mới nhận được kinh phí, mất nhiều thời gian
để quyết toán, thậm chí là phải nói dối để hợp thức hóa chứng từ.
Thực tế quản lý, tổ chức và sử dụng
kinh phí cho khoa học, công nghệ đúng là đang tồn tại những hạn chế nêu trên.
Nhưng có lẽ nếu chỉ sửa đổi chính sách, luật pháp để đổi mới các nhiệm vụ khoa
học, công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước là chưa đủ. Trước hết là kinh phí từ
ngân sách Nhà nước sẽ khó có thể đáp ứng cho nhu cầu phát triển khoa học, công
nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi đó, để
đưa nước ta thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, vươn lên trở thành nước công nghiệp,
thì chỉ có một con đường duy nhất là phát triển khoa học và giáo dục. Vì vậy,
tại Kỳ họp thứ Tư, nhiều ĐBQH cho rằng, Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi) không
chỉ nên đưa ra định hướng để sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà
nước, mà còn phải thực sự trở thành động lực giống như khoán 10 trong
nông nghiệp. Thậm chí, Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi) có thể trở thành một
Luật Doanh nghiệp thứ hai. Hay nói cách khác là sau khi luật được ban hành thì
sẽ xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp, tổ chức khoa học, công nghệ ngoài
Nhà nước. Thực tế quá trình phát triển kinh tế trong thời gian qua cũng đã khẳng
định, doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn, tạo ra nhiều công
ăn việc làm nhiều hơn.
Về nguyên tắc, các quy định pháp luật
được ban hành là để định hướng cho hành động của mỗi cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi) phải trở thành động
lực để thu hút xã hội đầu tư cho khoa học, công nghệ của ĐBQH là hoàn toàn hợp
lý. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ có thể sử dụng công cụ thuế và phí để định hướng
phát triển cho các ngành nghề, lĩnh vực. Nhà nước cần hạn chế và tốt nhất không
nên sử dụng quyết định hành chính để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, đơn
vị. Do đó, điều quan trọng là các cơ quan chức năng cần có những hành động
thiết thực để tạo động lực cho thu hút xã hội đầu tư vào khoa học, công nghệ
như: đơn giản thủ tục hành chính; đẩy mạnh công tác bảo vệ sở hữu trí tuệ; công
khai, minh bạch trong ban hành chính sách...
Theo http://www.daibieunhandan.vn (nthieu)