Việt Nam tụt hậu 50 năm so với Thái Lan về công bố khoa học
Dân số đông, nhiều tiến sĩ, nhưng số ấn phẩm khoa học Việt Nam công cố trên thế giới còn rất thấp so với các nước khu vực. Việt Nam phải hơn nửa thế kỷ nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại của Thái Lan.
Sự hiện diện của
khoa họcViệt Nam
trên trường quốc tế còn khiêm tốn. |
Tiến sĩ Bùi Du Dương, học
giả ở trường Đại học quốc gia Singapore
phân tích về thực trạng khoa học Việt Nam so với các nước khu vực và bài
học từ các nước Đông Á với sự phát triển vượt bậc về công bố quốc tế trong
những năm qua.
Tiến
sĩ Bùi Du Dương. Ảnh do nhân vật cung cấp.
Cùng với xu thế hội nhập,
số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành thước đo quan trọng,
chỉ số khách quan phản ánh sự phát triển khoa học công nghệ cũng như hiệu suất
khoa học của mỗi quốc gia. Với bản thân nhà khoa học, các công bố quốc tế không
chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân như cung cấp các chứng từ ghi nhận thành quả
nghiên cứu, tạo dựng cơ hội hợp tác chuyên môn, thúc đẩy hội nhập quốc tế mà
còn là nghĩa vụ cần chia sẻ, đóng góp vào tri thức nhân loại, nâng cao sự hiện
diện của khoa học nước nhà. Công bố khoa học quốc tế thường được hiểu là các
bài báo được công bố trên các tạp chí khoa học, sách và các phát minh sáng chế
được quốc tế công nhận.
Khoa học Việt Nam đang ở đâu?
Có nhiều phân tích trong
nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học Việt Nam còn rất
khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm đến cảm thấy lo lắng. Thực trạng thấp
kém không chỉ so với các nước tiên tiến trên thế giới có nền tảng khoa học phát
triển lâu năm mà ngay cả khi so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Theo thống kê Viện thông
tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996-2011) Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm
khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần
năm của Thái Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười
của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam
gấp 17 lần Singapore, ba lần
Malaysia
và gần gấp rưỡi Thái lan.
Việt Nam hiện nay có
khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà
số ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố
của trường ĐH Tokyo (69,806 ấn phẩm) và một nửa của trường ĐH quốc gia
Singapore (28,070 ấn phẩm).
Đồ thị dưới đây của giáo
sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales, Australia mô tả số lượng và năng
suất công bố khoa học của Việt Nam so với các nước trong vùng cho thấy với tốc
độ hiện tại, chúng ta cần đến hơn nửa thế kỷ nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại
của Thái Lan, Malaysia chứ chưa nói gì đến Singapore hay các nước tiên tiến khác
trên thế giới.
Không chỉ khiêm tốn về số
lượng, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp
nhất so với những nước trong khu vực vừa được đề cập. Thứ hạng khiêm tốn này
cũng nhất quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ
chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO xếp hạng.
Thật ra, nước ta có nhiều
công trình nghiên cứu xứng đáng chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới, nhưng
rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo
nghiệm thu, đóng gói không chia sẻ, hoặc công bố trên những tạp chí trong nước
chưa được quốc tế công nhận và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
Nhiều phân tích nêu ra
những nguyên nhân chủ yếu cho tình trạng trên như phân phối ngân sách cho
nghiên cứu chưa thỏa đáng, rào cản về ngôn ngữ tiếng Anh, nhận thức chưa đầy đủ
về tầm quan trọng của công bố quốc tế, thiếu kinh nghiệm và chưa có thói quen
(văn hóa) công bố, thiếu chính sách đãi ngộ, khuyến khích nhà khoa học công bố quốc
tế, rất ít những tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh, chưa xác lập những
chuẩn mực đánh giá hiệu quả khoa học phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở đó công
bố quốc tế được sử dụng làm thước đo khách quan. Tuy nhiên, đến nay gần như vẫn
chưa có giải pháp nào đáng kể để cải thiện tình hình.
Bài học từ các nước Đông Á
Bản đồ thế giới về ấn phẩm
khoa học quốc tế đang thay đổi nhanh chóng trong vài thập kỷ gần đây, với sự
hiện diện của các “cường quốc mới” càng ngày càng gia tăng, đặc biệt là các
nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.
Số liệu thống kê mới nhất của SCImago tiến hành xếp hạng cho 147 nước và vùng
lãnh thổ có công bố khoa học cho thấy Trung Quốc đã vươn lên hàng thứ hai trên
thế giới về số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế chỉ sau Mỹ, vượt qua
rất nhiều nước có lịch sử khoa học phát triển lâu năm như Đức, Nhật, Anh, Pháp,
Canada.
Theo phân tích từ số liệu
ISI, trong vòng 15 năm gần đây số lượng ấn phẩm khoa học mà các nhà khoa học
Trung Quốc công bố hàng năm tăng gần 14 lần, từ 27.549 (hạng 9/147) năm 1996
đến 373.756 bài (hạng 2/147) năm 2011. Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh (Royal
Society) dự báo trong vòng hai năm tới số công bố khoa học của Trung Quốc có
thể vượt qua Mỹ.
Các nước và vùng lãnh thổ
ở Đông Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan cũng có bước tiến rất ấn tượng. Nếu năm
1996 chỉ có Nhật Bản và Trung Quốc lọt vào top 15 của thế giới về số ấn phẩm
khoa học thì năm 2011 đã có cả Hàn Quốc và Đài Loan lọt vào danh sách này.
Bằng cách nào mà họ có
những bước tiến ngoạn mục như thế?
Đầu tư thỏa đáng:
Các nước và lãnh thổ trên đều coi giáo dục, khoa học công nghệ là bộ phận không
thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, hiện đại hóa quốc gia họ. Ví dụ,
từ những năm 90, Trung Quốc đầu tư khoản tiền khổng lồ (so với GDP của Trung
Quốc vào thời điểm đó) hàng chục tỷ USD cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại
học, và nghiên cứu khoa họcvới các chương trình trọng điểm quốc gia như dự án
211 (1995), dự án 985 (1998), dự án 111 (2005).
Ngoài Trung Quốc, các quốc
gia khác cũng nỗ lực đầu tư khoản khổng lồ không kém nhằm cải thiện số lượng và
chất lượng công bố khoa học quốc tế mà điển hình là chương trình trọng điểm
quốc gia “Brain Korea 21 (BK21)”, Hàn Quốc hay chương trình “Xây dựng trường
đại học và trung tâm nghiên cứu đẳng cấp quốc tế” của Đài Loan.
Quốc tế hóa nhân
sự khoa học: Các nước hiểu rõ con người là nhân tố quyết định cho
thành công. Một mặt họ đầu tư tài chính để lôi cuốn được những giáo sư quốc tế
đến công tác hoặc hợp tác với khoa học trong nước, một mặt họ có chủ trương thu
hút những trí thức trong nước đã được đào tạo từ các nước phương Tây về nước nghiên
cứu và giảng dạy.
Hàn Quốc xây dựng các cơ
sở hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài (đặc biệt là Mỹ) và thuê các
nhà khoa học, quản lý hàng đầu thế giới đến làm việc. Năm 2008, Hàn Quốc đưa ra
“chương trình các đại học đẳng cấp thế giới” nhằm "nhập khẩu" các
giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, giúp sức “để chuyển đổi các
trường đại học Hàn Quốc thành những viện nghiên cứu đẳng cấp thế giới”. Tính
đến năm 2009, Hàn Quốc đã thu hút được hàng trăm Giáo sư nước ngoài hàng đầu
đến làm việc ở Hàn Quốc trong đó có 9 nhà khoa học đã từng đạt giải Nobel. Đồng
thời, Hàn Quốc khuyến khích gửi các nhà khoa học và sinh viên trong nước sang
học tập ở nước phương Tây. Theo báo cáo năm 2008 của Viện giáo dục Fulbright
(Hoa kỳ), trung bình cứ 7 sinh viên quốc tế ở Mỹ thì lại có 1 sinh viên Hàn
Quốc.
Không chỉ đầu tư thu hút
giảng viên và nhà nghiên cứu, các nước cũng nỗ lực thu hút sinh viên nước
ngoài, đặc biệt là sinh viên sau đại học thông qua nhiều chương trình trao đổi
sinh viên, liên kết đào tạo, chương trình hợp tác nghiên cứu, cung cấp học bổng.
Quốc tế hóa tiêu
chuẩn đánh giá khoa học: Ở các nước Đông Á, chức danh khoa bảng như
giáo sư, phó giáo sư, giảng viên đều được đề bạt và đánh giá dựa vào số lượng
công trình khoa học quốc tế công nhận thay vì các tiêu chí khác như thâm niên
công tác, nền tảng gia đình hay mối quan hệ cá nhân. Hơn nữa, các cơ quan quản
lý và nhà tài trợ đều hướng đến việc sử dụng công bố khoa học quốc tế là một tiêu
chuẩn quan trọng để đánh giá xem xét việc cấp tài trợ hay nghiệm thu các đề tài
nghiên cứu.
Các nước chú trọng nâng
cao chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới
của nghiên cứu sinh tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường được yêu cầu có bài
đăng trên tạp chí quốc tế trước khi có thể bảo vệ luận án. Các học viên cao học
cũng khuyến khích công bố trên các tạp chí và các hội nghị khoa học quốc tế trước
khi bảo vệ luận văn.
Hàng năm, các nước tiến
hành tiến hành xếp hạng các trường ĐH theo tiêu chuẩn quốc tế như THE, ARWU ở
đó số lượng công bố khoa học quốc tế là một trong những tiêu chí quan trọng của
bảng xếp hạng.
Quốc tế hoá tập
san khoa học: Các nước chú trọng xây dựng ngày càng nhiều các tập san
khoa học trong nước bằng tiếng Anh với hệ thống bình duyệt theo tiêu chuẩn quốc
tế mà vào hệ thống ISI công nhận. Các bài báo khi đăng ở các tạp chí được ISI
công nhận sẽ được tính trong hệ thống khi xếp hạng quốc tế. Ở đây, ta chưa nói
đến vấn đề chất lượng mà chỉ bàn đến vấn đề thay đổi ngôn ngữ xuất bản và quy
trình bình duyệt của các tập san sao cho phù hợp với chuẩn của các tập san quốc
tế.
Cải thiện cơ cấu
tổ chức: Không chỉ đầu tư mạnh về tài chính, với các nước có cơ cấu tổ
chức khoa học chưa phù hợp với xu hướng thế giới như Trung Quốc đã tiến hành
những cải tổ quan trọng. Họ thực hiện tái cấu trúc các trường đại học, xây dựng
trường đại học tổng hợp, thiên hướng nghiên cứu thay vì các mô hình trường đại
học chuyên ngành chủ yếu giảng dạy của Xô Viết cũ. Nhà nước Trung ương cũng chủ
trương xây dựng các phòng nghiên cứu trọng điểm quốc gia và đặt tại các trường
đại học theo mô hình các trường đại học nghiên cứu ở Hoa Kỳ thay vì duy trì các
viện nghiên cứu độc lập nằm ngoài trường đại học mà Trung Quốc áp dụng trong
những năm 50.
Các nước khuyến khích tăng
dần tỷ lệ của học viên sau đại học so với sinh viên đại học ở các cơ sở đào
tạo, từ đó cho phép xây dựng những nhóm nghiên cứu chuyên ngành với thành viên
đông đảo là các sinh viên thạc sĩ và tiến sĩ làm việc ở các phòng nghiên cứu.
Chính sách khen
thưởng thỏa đáng: Các nước đều có chính sách đãi ngộ, thưởng cũng như
hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình công bố
trên các tập san quốc tế uy tín cao. Ví dụ, các viện nghiên cứu và đại học ở
Trung Quốc có chính sách thưởng tiền đáng kể (lên tới 32.000 USD ở Trường Đại
học Y Quảng Đông cho công bố đăng trên Nature hay Science) cho các nhà khoa học
nếu họ công bố công trình trên các tập san quốc tế uy tín có chỉ số ảnh hưởng
cao.
Có chung rào cản về ngôn
ngữ Tiếng Anh, gần gũi về đặc điểm văn hóa, cũng như sự tương đồng về điều kiện
kinh tế, giáo dục lúc xuất phát điểm, các quốc gia Đông Á đã thành công, thì
không có lý do gì chúng ta không áp dụng những biện pháp trên để nâng cao sự
hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.