Vốn xã hội trong khoa học xã hội nhân văn
Khoa học xã hội không phải bao giờ cũng được hoạt động thuần túy vì mục đích khoa học, mà đằng sau nó luôn chứa đựng những động cơ chủ quan của cá nhân hay của một lực lượng có quyền lợi nào đó. Chính những động cơ chủ quan ấy đã chi phối đến phương thức hợp tác và sự tin tưởng lẫn nhau giữa các nhà khoa học, cũng như giữa giới khoa học với đời sống xã hội.
Ta có thể thấy những người làm khoa
học xã hội (KHXH) chia thành hai nhóm: (1) nhóm những người thuần túy vì khoa
học; (2) nhóm những người có mục đích luận.
Với tình hình thực tế của xã hội Việt Nam trong nhiều
năm qua, thì nhóm thứ nhất thường chiếm số lượng khá hạn chế. Các phương thức
hoạt động và hợp tác giữa các cá nhân trong nhóm này thường dựa trên cơ sở đồng
đẳng - bình đẳng về trình độ chuyên môn và đạo đức khoa học. Nhưng hoạt động của
nhóm này thường là co cụm, thiên về việc kết hợp với nhau theo những nhóm cá
nhân nhỏ lẻ nằm ngoài những quy hoạch và dự án của nhà nước, thực chất là một
sự tự cô lập/phân biệt mình với những người thuộc nhóm thứ hai. Họ hoạt động
khoa học như những cá nhân bị xé lẻ ở bên ngoài hệ thống, bên ngoài mạng lưới
chính thức, và đôi khi vì cái khí chất “thuần túy khoa học” bất chấp các hoàn
cảnh lịch sử, nên họ rất dễ bị quy chụp, bị kiểm điểm, kỷ luật… Nhẹ hơn, họ bị
cấm làm việc, hoặc được làm việc dưới sự kiểm soát nhưng theo danh nghĩa của
người khác hoặc của tập thể. Điều đó có nghĩa là “vốn xã hội” của nhóm này gần
như đã bị đẩy về con số không.
Trong khi đó, những
người “chính danh” ở trong hệ thống, ở trong mạng lưới, vì luôn bị chi phối bởi
tính mục đích của hệ thống đó, đã uyển chuyển đưa ra những phương thức làm việc
cho phù hợp với quyền lợi của mình và quyền lợi của một số người khác, bất luận
thực tế khách quan của xã hội cũng như những hệ quả mà nó đem lại. Họ sẵn sàng
gạt sự thật, gạt lịch sử và những quy luật khách quan của xã hội sang một bên.
Sự trung thực không còn được coi như là yếu tố tiên quyết cho một kết luận khoa
học, mà thay vào đó là những cứ liệu, số liệu đã được chỉnh sửa để áp vào cho một
định đề có sẵn. Sự hợp tác giữa những “người làm khoa học” này mặc dù là khá
khăng khít và nhịp nhàng, nhưng mục đích luận của nhóm lợi ích đã khiến họ trở
thành một mạng lưới của những cá nhân phi khoa học. Như vậy, nhóm lợi ích trong
hoạt động KHXH với mục tiêu/đích đến của mình, họ có thể tạo nên một sự tin
tưởng và hợp tác chặt chẽ. Nhưng những giá trị ảo, hay giá trị bề mặt của nó sẽ
khiến KHXH ngày càng tụt hậu.