Giải pháp từ khoa học và công nghệ
Sau 15 năm triển khai Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn và miền núi” (Chương trình Nông thôn miền núi) theo Quyết định số 132/QĐ-TTg ngày 21-7-1998 của Thủ tướng Chính phủ, đã có 845 dự án được triển khai thực hiện trên cả nước, với tổng kinh phí hơn 2.745 tỷ đồng. Các dự án thành công đã góp phần không nhỏ vào mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản của các địa phương, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho cộng đồng dân cư ở nông thôn, miền núi.
Giới thiệu giống
hàu thương phẩm tại Trung tâm Giống thủy sản Bình Định. Ảnh: Thu Hiền
Tạo "điểm
sáng" về ứng dụng KH&CN vào sản xuất
Chia sẻ với
chúng tôi, ông Nguyễn Thế Ích, Chánh văn phòng Chương trình Nông thôn miền núi
cho biết, mục đích của chương trình là xây dựng các mô hình ứng dụng và chuyển
giao khoa học và công nghệ (KH&CN) tiên tiến, phù hợp vào các khâu sản xuất,
chế biến, bảo quản tại địa bàn nông thôn, miền núi nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường; ứng dụng
nhanh các thành tựu KH&CN vào sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội
khu vực nông thôn, miền núi theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Các dự án được
hình thành gắn với mục tiêu, sản phẩm cụ thể như: Nâng cao hiệu quả sản xuất
lúa gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và chất lượng xuất khẩu; ứng dụng công
nghệ cao để sản xuất các loại nông sản quý (rau quả và hoa), phát triển các loại
nông sản nhiệt đới có lợi thế so sánh cao như cà phê, tiêu, chè, điều, cao su;
nâng cao hiệu quả sản xuất các mặt hàng còn phải nhập khẩu như bông, cây dầu thực
vật, bột giấy…
Đánh giá về hiệu
quả, ông Nguyễn Thế Ích khẳng định, chương trình đã hoàn thành các mục tiêu và
nội dung được Thủ tướng phê duyệt ở cả 3 giai đoạn. Đặc biệt, các dự án đã lựa
chọn được những công nghệ tiên tiến, phù hợp, xây dựng được những mô hình ứng dụng
KH&CN có hiệu quả hướng vào giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội có tầm
quan trọng đối với địa phương như: Nâng cao năng suất, chất lượng và đa đạng
hóa các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa và phát huy lợi thế của từng vùng. Các dự
án của chương trình đã thực sự tạo được "điểm sáng" về ứng dụng tiến
bộ KH&CN vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội thiết thực, góp phần
cải thiện đời sống nhân dân.
Ví dụ như trong
lĩnh vực trồng trọt, đây là lĩnh vực có số dự án lớn nhất với 258 dự án, chiếm
tỷ lệ 30,5% tổng số dự án, với tổng kinh phí thực hiện là hơn 835 tỷ đồng. Các
dự án đã đào tạo được khoảng 2.613 kỹ thuật viên cơ sở; tập huấn kỹ thuật cho
82.350 lượt nông dân tại các địa bàn dự án; triển khai chuyển giao và tiếp nhận
1.390 quy trình công nghệ; xây dựng được 732 mô hình và đã tổ chức hàng trăm hội
nghị khuyến cáo kết quả tới cộng đồng dân cư trên địa bàn. Có 51 dự án cây
lương thực được triển khai. Các dự án đã sản xuất và chuyển giao được giống mới,
sạch bệnh đến người dân như: Giống lúa lai, lúa thuần, lúa đặc sản, ngô lai,
khoai tây, khoai môn, sắn cao sản... Ngoài các dự án cây lương thực, chương
trình cũng đã có 35 dự án trồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, bảo đảm
các yêu cầu: Sạch, an toàn về chất lượng, hấp dẫn về hình thức…
|
Kiểm tra nguồn dược liệu tại Công ty Cổ phần thương mại Dược Vật tư Y tế Khải Hà (Thái Bình). Một trong những dự án của Chương trình Nông thôn miền núi. Ảnh: Thu Hiền |
Thành công lớn
nhất của chương trình là đã mang lại hiệu quả về KH&CN rất tích cực. Chương
trình đã chuyển giao được 4.761 lượt công nghệ. TS Đặng Văn Đông, Phó viện trưởng
Viện Nghiên cứu rau quả (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) khẳng định, việc
lựa chọn công nghệ và cơ quan chuyển giao công nghệ chính là nhân tố quan trọng
quyết định sự thành công của các dự án thuộc chương trình. Trong 15 năm qua, Viện
Nghiên cứu rau quả đã chuyển giao cho 22 tỉnh, thành phố trong cả nước các giống
rau, hoa, quả mới và quy trình kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc, thu hái bảo
quản, rau, hoa, quả. Thu nhập từ các mô hình này đạt 450-500 triệu đồng/ha/vụ;
nhiều mô hình hoa cao cấp đạt 3-5 tỷ đồng/ha/năm, trong đó lợi nhuận đạt được từ
25%-30%, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động có thu nhập cao.
Đặc biệt, các dự
án đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong chuyển giao và ứng dụng công nghệ. Từ 845 dự
án được thực hiện đã xây dựng được 2.501 mô hình sản xuất. Việc nhân rộng mô
hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN là mục tiêu của chương trình và
cũng là yếu tố quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn,
miền núi. Các dự án thuộc chương trình đã góp phần thực hiện chính sách của Đảng
và Nhà nước trong việc ưu tiên đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội địa
bàn nông thôn, miền núi. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn dựa
trên phát triển KH&CN, dùng KH&CN để phát triển kinh tế-xã hội nông
thôn, miền núi. Cũng theo ông Nguyễn Thế Ích, các dự án của chương trình còn
mang lại hiệu quả xã hội rất lớn khi thu hút được gần 30 nghìn lao động trực tiếp
và khoảng 100 nghìn lao động gián tiếp, nhất là khi các mô hình áp dụng kỹ thuật
công nghệ được nhân rộng sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới góp phần đáng kể việc
giải quyết lao động dôi dư ở nông thôn.
|
Sản xuất thực phẩm chức năng tại Công ty Cổ phần thương mại Dược vật tư y tế Khải Hà (Thái Bình). Ảnh: Thu Hiền |
Nghiên cứu kéo
dài thời gian thực hiện dự án
Bên cạnh các kết
quả đạt được, việc tổ chức thực hiện các dự án của chương trình trong các giai
đoạn còn bộc lộ những hạn chế. Cụ thể như:
Nguồn nhân lực
lao động thất nghiệp ở địa phương rất lớn, tuy nhiên lại không đáp ứng được yêu
cầu sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt là yêu cầu nghiên cứu triển khai. Hầu
hết người dân ở địa bàn nông thôn và miền núi còn nghèo, trình độ dân trí thấp
nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp thu các tiến bộ KH&CN.
Thời gian bắt đầu
phê duyệt các dự án đến khi được thực hiện dự án khá dài (thường mất khoảng 18
tháng), do vậy đa số các dự án bị ảnh hưởng do tỷ lệ trượt giá cao. Có không ít
dự án công nghệ đang được chuyển giao nhưng đã trở thành lạc hậu bởi đã xuất hiện
công nghệ mới ra đời, từ đó ảnh hưởng đến kết quả của dự án. Nhiều dự án sản xuất
ra sản phẩm hàng hóa chưa có quy mô lớn, chưa khép kín từ khâu phát triển vùng
nguyên liệu đến sơ chế, chế biến và đưa sản phẩm ra thị trường, hay nói cách
khác là việc tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chưa được phát triển theo “chuỗi”.
Hằng năm, nhu cầu
đề xuất thực hiện các dự án của các địa phương là rất lớn, do kinh phí từ ngân
sách Nhà nước dành cho chương trình còn hạn hẹp nên chưa đáp ứng được nhu cầu
(giai đoạn 2011-2015, kinh phí chỉ đủ để dành cho 322/489 dự án, đạt 61% số dự
án đề xuất). Đây cũng là lý do chưa có nguồn để bố trí kinh phí phục vụ công
tác quản lý dự án ở địa phương. Bên cạnh đó, mức kinh phí hỗ trợ còn thấp so với
đề xuất; tiến độ, thời gian cấp kinh phí còn chậm; chưa có chính sách hỗ trợ
kinh phí để tiếp tục mở rộng các mô hình đạt hiệu quả sau khi kết thúc dự án.
Với những thành
công đã đạt được, có 53/63 tỉnh, thành phố đã có ý kiến chính thức, kiến nghị
Thủ tướng Chính phủ cho phép chương trình tiếp tục được triển khai với thời
gian ít nhất là 10 năm. Theo các kết quả nghiên cứu, các dự án thuộc chương
trình chủ yếu là cây trồng, vật nuôi, với thời gian thực hiện 2 năm cho một dự
án thì nhiều dự án sẽ không thể đánh giá được hiệu quả kinh tế của các mô hình
được triển khai (trong lĩnh vực trồng trọt, lâm nghiệp nhiều dự án để đánh giá
được hiệu quả kinh tế thì phải mất tới 6-7 năm). Vì vậy, Chính phủ cũng nên cho
phép các dự án được tiếp nhận công nghệ trực tiếp từ nước ngoài và có thể được
kéo dài thời gian thực hiện các dự án trên 5 năm nếu thấy cần thiết.
Để việc chuyển
giao và ứng dụng KH&CN thành công thì không thể thiếu đội ngũ các nhà khoa
học. Vì vậy, Chính phủ cũng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các cán bộ
khoa học trẻ, tình nguyện về “nằm vùng”, “cắm bản” để hướng dẫn, chuyển giao
KH&CN tại các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số.