Văn hóa công bố quốc tế đã được thiết lập
Khoảng 5 năm trở lại đây, văn hóa công bố quốc tế được thiết lập ở nhiều đơn vị nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam. GS.TS Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội trao đổi với VietNamNet về vấn đề này, sau thống kê của Bộ KH&CN về một vài chỉ số khoa học, trong đó đáng lưu ý có chỉ số về công bố quốc tế.
GS.TS Nguyễn Hữu
Đức
Nhóm nghiên cứu
đủ mạnh mới có hợp tác quốc tế
Ngoài yếu tố số
lượng, thì ông đánh giá chất lượng các bài báo quốc tế như thế nào? ĐHQGHN có
quan tâm thống kê số lần trích dẫn không?
Chúng tôi không những khuyến khích công bố quốc
tế, mà còn khuyến khích các nhà khoa học đăng ở các tạp chí có uy tín. Câu lạc
bộ các nhà khoa học của ĐHQGHN đã thí điểm việc này rất tốt. Theo thông lệ quốc
tế, các tạp chí quốc tế trong từng chuyên ngành, lĩnh vực được phân thành 4
nhóm Q1, Q2, Q3 và Q4 (mỗi nhóm 25% tổng số tạp chí) tùy theo chỉ số ảnh hưởng
và uy tín. Các nhà khoa học nào có bài đăng trong tạp chí nhóm Q1 và Q2 được hỗ
trợ tài chính ở mức cao hơn. Trong thời gian tới, sáng kiến này được chuyển
giao áp dụng ở Quỹ Nafosted.
ĐHQGHN cũng rất
quan tâm đến các công bố quốc tế có số lần trích dẫn cao. Thống kê mà chúng tôi
có được từ nguồn ISI, từ năm 2012 – 2015 ĐHQGHN có 845 bài báo quốc tế, với tổng
cộng hơn 3.348 lần trích dẫn, bài cao nhất 186 lần trích dẫn. Trung bình một
bài báo có 3,96 lần trích dẫn. So sánh với trường ĐH Chulalongkorn của Thái
Lan, trong khoảng thời gian này họ có số bài báo rất nhiều (4955 bài với 16.336
lượt trích dẫn, bài cao nhất là 2.285 lần trích dẫn). Nhưng trung bình mỗi bài
báo của họ cũng chỉ có 3,3 lần trích dẫn. Mức độ trích dẫn đang từng bước được
chúng tôi xem xét để đánh giá, xét tăng giải thưởng…
Ông nghĩ gì về
thống kê cho thấy các công trình có hợp tác nước ngoài thì chất lượng cao hơn
so với các công trình hoàn toàn bằng nội lực?
Về tổng thể, tôi có thông tin mức độ hợp tác
quốc tế và hợp tác với doanh nghiệp trong các bài báo của ĐHQGHN là 59,4% và
0,8% (số liệu tương ứng của Việt Nam là 68,4% và 0,8%). Mức độ hợp tác quốc tế,
số tác giả có địa chỉ từ các quốc gia khác nhau là một chỉ số đánh giá của các
bảng xếp hạng quốc tế. Thông tin có thể được phân tích và khai thác khác nhau.
Quan điểm của
tôi là, các nhóm nghiên cứu đủ mạnh mới có hợp tác quốc tế. Không ai hợp tác với
các nhóm không có tiếng tăm gì. Theo cách tiếp cận này, ĐHQGHN đã một số nhóm
có những hợp tác quốc tế rất hiệu quả, có nhiều công trình tốt và có trích dẫn
rất cao, ví dụ như nhóm của GS Phạm Hùng Việt trong lĩnh vực địa môi trường,
hay nhóm của GS Lưu Văn Bôi trong các nghiên cứu nhiên liệu sinh học. Một số
bài báo của nhóm GS Việt đã có số trích dẫn trên 300 lần.
Theo tiếp cận
khác thì chúng ta cũng nên tự hào và đánh giá cao các công bố quốc tế hoàn toàn
thực hiện bằng nội lực. Điều này phản ánh tiềm lực và khả năng giải quyết độc lập
các vấn đề KH&CN của các nhà khoa học ở nước ta. Trong trường hợp này, có
thể nêu tên một số nhóm vừa có xuất bản quốc tế vừa có ứng dụng rất tốt, như
nhóm của PGS Đỗ Thị Hương Giang trong lĩnh vực vật liệu và linh kiện nano.
Xác định nhiệm vụ
khoa học không bằng cách… đoán
Có ý kiến cho rằng
chỉ có khoa học cơ bản mới chú trọng công bố quốc tế, còn nghiên cứu ứng dụng
thì không cần. Quan điểm này có thỏa đáng không, thưa ông?
Câu hỏi này còn nhiều bàn luận khác nhau lắm.
Bản thân tôi đang tiếp cận cận theo thông lệ và quy định của các bảng xếp hạng
quốc tế. Bảng xếp hạng QS star (xếp hạng gắn sao) quan niệm rằng một chương
trình, đề tài khoa học được tính là một hợp tác của đại học và doanh nghiệp nếu
chương trình, đề tài đó có công bố quốc tế và chuyển giao được các kết quả đó
cho doanh nghiệp.
Thiết nghĩ, doanh nghiệp người ta chỉ cần các phát kiến mới, chưa ai có để phát
triển các sản phẩm có tính cạnh tranh cao, còn những điều đã tìm thấy trong
sách, trên mạng thì chắc doanh nghiệp tự tìm được. Vậy nên, có thể phân loại rất
rõ, có thể có các nghiên cứu ứng dụng không ưu tiên (chứ không phải không cần),
nhưng các ứng dụng chuyên nghiệp, trình độ cao thì công bố khoa học là một thước
đo. Cách tiếp cận này đang được khuyến khích ở ĐHQGHN - nghiên cứu cơ bản đi
trước hoặc đồng thời với nghiên cứu ứng dụng.
Ví dụ như công
trình nghiên cứu xây dựng hệ gen người Việt của nhóm PGS Lê Sĩ Vinh. Đây là
nghiên cứu làm chủ và phát triển công nghệ tin-sinh trình độ cao. Nghiên cứu
này đi trước, có công bố quốc tế, được phản biện quốc tế rồi mới đến bước áp dụng
vào rất nhiều ứng dụng trong y học. Ví dụ nữa về thiết kế chip, nhóm của PGS Trần
Xuân Tú vừa rồi đã công bố vi mạch VENGME H.264/AVC. Trong quá trình nghiên cứu
đi đến sản phẩm này, nhóm đã có tất cả 10 công bố quốc tế với tổng cộng gần 30
lần được trích dẫn.
Theo ông, cần phải
làm gì để chọn được những đề tài và định hướng phát triển KH&CN tốt?
- Theo truyền thống, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng kế hoạch
trung hạn, chiến lược phát triển khoa học công nghệ hay là xét chọn đề tài
nghiên cứu, thường dựa vào ý kiến chuyên gia. Cách làm này bắt đầu có nhiều bất
cập, vì một số chuyên gia chỉ phát huy kinh nghiệm và sự suy đoán của mình.
Hiện nay, như đã
minh họa ở trên, cơ sở dữ liệu khoa học phát triển rất mạnh, đặc biệt là cơ sở
dữ liệu của ISI (Thomson Reuters) và Scopus (Elsevier). Phân tích các cơ sở dữ
liệu này, có thể biết được tình hình và các xu thế nghiên cứu đang thịnh hành,
được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới. Từ đó có thể tiên đoán xu hướng phát
triển của khoa học công nghệ trong những năm tới.
Đây là một nguồn
thông tin mà các quốc gia, tổ chức giáo dục và nghiên cứu sử dụng để xây dựng
chiến lược phát triển. Đối với nhiều trường đại học trên thế giới, các quỹ phát
triển khoa học công nghệ, ngoài hệ thống chuyên viên và quy trình xét chọn có
tính chất hành chính bình thường, còn có thêm một nhóm hỗ trợ ra quyết định dựa
trên phân tích cơ sở dữ liệu khoa học từ các nguồn Web of Science và Scopus.
Cũng từ các nguồn này, người ta cũng có thể đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học
công nghệ của các các nhân, tổ chức… Như vậy, việc quản lý khoa học không còn
như còn như trước nữa mà đã trở nên định lượng, minh bạch và tin cậy.
Việc sử dụng các cơ sở dữ liệu như vậy thời gian vừa qua đã được Quỹ Nafosted
triển khai rất tốt. Rõ ràng là công tác quản lý khoa học, xác định các nhiệm vụ
khoa học chủ lực không còn phải… đoán nữa.
Xin cảm ơn ông.