Bản tin Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại (TBT) tháng 7
Thông tin hỗ trợ doanh nghiệp.
Doanh nghiệp hội nhập và “cuộc chiến mới” phía
sau hàng rào thuế quan
Trong quá trình hội nhập, các biện pháp hỗ trợ
thị trường nội địa vẫn luôn được các quốc gia tăng cường sử dụng. Câu chuyện cá
tra, cá basa Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá tại Mỹ, thép cuộn cán nguội
xuất khẩu bị áp thuế chống bán phá giá tại Indonesia… không còn xa lạ và tới
đây các “cuộc chiến” bảo trợ sau hàng rào thuế quan sẽ còn diễn ra mạnh mẽ và
tinh vi hơn.
Tôn, thép Việt Nam đối mặt với
nguy cơ từ tranh chấp thương mại
Quay
trở lại thị trường nội địa, các cam kết hội nhập cũng đặt ra nhiều thách thức,
như sự gia tăng cạnh tranh giành thị phần, sự chèn lấn về khả năng tiếp cận vốn
của các doanh nghiệp nước ngoài… với doanh nghiệp trong nước. Tình hình đã
khiến nhiều chuyên gia đặt câu hỏi: Chúng ta còn bao nhiêu không gian chính
sách để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước?
Cơ hội nghiêng về khối ngoại
Một
nghiên cứu gần đây nhất từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) và
Tổ chức Action Aid International tại Việt Nam đã nhấn mạnh ý nghĩa phát triển
kinh tế mũi nhọn, trong đó chỉ ra hai lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam có tiềm năng
và thế mạnh phát triển là công nghiệp điện tử và công nghiệp chế biến thực
phẩm.
Báo
cáo với chủ đề “Tác động của các hiệp định thương mại tự do và hiệp định đầu tư
song phương tới các mục tiêu phát triển dài hạn của Việt Nam” đã nhấn mạnh
điện tử là ngành Việt Nam có tiềm năng phát triển cao trong tương lai, khi gần
đây các công ty điện tử đa quốc gia đang tăng sự quan tâm đầu tư và mở rộng sản
xuất.
Đáp ứng chuẩn mực quốc tế: Thách thức của
doanh nghiệp Việt
Các
phân tích trong đó cho rằng đây là yếu tố cơ hội giúp tăng vị thế của Việt Nam
trong chuỗi cung ứng các sản phẩm điện tử dân dụng.
Xét
về các điều kiện cam kết, sau khi gia nhập WTO, thuế quan đối với các sản phẩm
điện tử được thực hiện khá nhanh. Trần thuế nhập khẩu với tất cả sản phẩm điện
tử giảm về mức 0% trong (vòng 3 năm-5 năm hoặc tối đa 7 năm).
Việc
thực thi cam kết cắt giảm thuế quan trong các (Hiệp định thương mại tự do) FTA
khu vực từ 2006 cũng tác động đáng kể đến ngành điện tử ở Việt Nam khi hầu hết
các dòng thuế đều được cắt giảm về 0%.
Liên
quan đến các cam kết đầu tư, trong khuôn khổ WTO và những thay đổi gần đây cho
thấy, các nhà đầu tư nước ngoài được trao nhiều quyền/cơ hội trong việc nắm giữ
cổ phần trong các doanh nghiệp nội địa.
Bên
cạnh đó, Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang đàm phán
hướng tới phạm vi rộng hơn, trong đó nhấn mạnh những quy định liên quan đến đầu
tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu tư. Đặc biệt, Việt Nam khó có thể giảm những ưu
đãi đã cấp cho các doanh nghiệp điện tử nước ngoài (cao hơn so với doanh nghiệp
trong nước) nếu có các cam kết chặt chẽ hơn về bảo hộ, xử lý tranh chấp giữa
nhà đầu tư và Chính phủ.
Trước
bối cảnh đó, chuyên gia Nguyễn Anh Dương thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh
tế Trung ương cho rằng, quá trình hội nhập quốc tế đã tác động đáng kể đến
không gian chính sách đối với ngành điện tử, như thu hẹp không gian chính sách
thuế quan, giảm mức độ và khả năng sử dụng các biện pháp phi thuế quan, hạn chế
hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp trong nước và giảm các biện pháp hỗ
trợ liên quan đến đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước.
“Tuy vậy, Chính phủ vẫn còn dư địa để thực hiện những biện pháp hỗ trợ ngành
này, bao gồm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đào tạo và tập huấn cho lao động,
nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, bởi
những biện pháp thuần túy thương mại để hạn chế các sản phẩm điện tử thâm nhập
thị trường hầu như không còn nhiều dư địa,” ông Dương đề xuất.
Hàng rào phi thuế quan... không dễ
Chiến
lược và quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đến 2025 và tầm nhìn đến 2035
được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định 879, đã đặt nền tảng phát triển cho
ngành công nghiệp chế biến, trong đó có chế biến thực phẩm.
Nhưng
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện cũng cho thấy nhiều vấn đề đối với ngành
chế biến thực phẩm. Cụ thể: Mức thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm dần, các quy tắc
xuất xứ ngày càng phức tạp hơn, như vậy việc áp dụng quy tắc xuất xứ trong nước
khó có thể giúp hạn chế cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài.
Thêm
vào đó, việc tuân thủ các quy định về sở hữu trí tuệ cũng không dễ dàng, trong
khi ngành chế biến thực phẩm của Việt Nam thường đi chậm hơn trong việc đăng ký
bảo hộ sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu sáng chế, nhãn hiệu tập thể và chỉ dẫn địa
lý…
Bên
cạnh đó, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia của Việt Nam đối với ngành chế biến thực
phẩm thấp hơn so với các nước phát triển nên khi áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật
cao hơn sẽ mang lại thách thức cho doanh nghiệp nội địa (quy tắc Đối xử quốc
gia trong WTO và các hiệp định thương mại tự do khác).
Ông
Nguyễn Tiến Dũng , Phó giám đốc, Economica Vietnam nhấn mạnh, các cam kết từ
Hiệp định TPP tới đây có các điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ được mở
rộng hơn nhiều so với WTO, do đó việc sử dụng hàng rào phi thuế quan sẽ bị hạn
chế bởi những quy định liên quan đến đảm bảo minh bạch.
Theo
ông Dũng, những nỗ lực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, song nếu thiếu
quan tâm đúng mức đến thực trạng phát triển và mong muốn của doanh nghiệp trong
nước, có thể ảnh hưởng bất lợi tới sự phát triển sản xuất.
“Do
đó, Việt Nam cần một lộ trình phù hợp và đủ dài với quyết định tiếp cận đối với
các FTA và BIT, để có thể đảm bảo khả năng đó có thể thành hiện thực hóa. Chính
phủ cần duy trì không gian chính sách bằng khả năng sử dụng nhiều công cụ hỗ
trợ khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong quá trình kiến tạo môi trường phát
triển thuận lợi, phù hợp và nhất quán cho các doanh nghiệp sản xuất chế biến ở
Việt Nam,” ông Dũng kiến nghị./.
Nguồn:
TTXVN
Xuất khẩu nông, thủy sản sang EU: DN cần có sự chuẩn bị cao nhất
FTA Việt
Nam –EU dự kiến sẽ được kí kết vào cuối năm nay đang mang đến cơ hội mở rộng thị
phần hàng hóa xuất khẩu (XK) của Việt Nam tại thị trường truyền thống này, đặc
biệt đối với hàng nông thủy sản.
Tại hội
thảo Kinh doanh với thị trường Phần Lan và EU do Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 3-7 tại TP.HCM, ông Lê Kỳ Anh, chuyên gia kinh tế
và thương mại Phái đoàn EU tại Việt Nam cho biết, trong 10 năm qua tăng trưởng
XK sang EU luôn đạt tốc độ từ 15% đến17%/năm. EU là thị trường XK quan trọng
của nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam.
Điển hình
như trong năm 2014, kim ngạch XK mặt hàng điện thoại vào thị trường EU
chiếm 40%, giày dép chiếm 30%, dệt may gần 17%, trong tổng kim ngạch XK các mặt
hàng này.
Điều đáng chú ý là tuy EU chưa phải đối tác lớn nhất của Việt
Nam nhưng lại là đối tác mang lại cho Việt Nam thặng dư thương mại lớn. Trong
năm 2014 thặng dư thương mại từ thị trường này là gần 19 tỉ USD.
Theo ông
Lê Kỳ Anh, lí do giúp Việt Nam tăng trưởng mạnh XK tại thị trường EU ngoài sự
năng động của DN trong việc đáp ứng những yêu cầu của thị trường này và đặc
tính bổ sung từ hai khu vực kinh tế, Liên minh châu Âu còn được đánh giá là khá
hào phóng khi cho Việt Nam hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) ngay từ khi hai
bên mới chỉ kí Hiệp định hợp tác khung từ năm 1996.
Mặc dù
vậy, DN Việt Nam vẫn chưa khai thác hết ưu đãi GSP từ EU. Theo thống kê của Bộ
Công Thương, tỉ lệ hưởng ưu đãi GSP cao nhất của DN Việt Nam mới chỉ đạt 40%
trong khi đó DN Thái Lan đã khai thác được tới 68%.
“Lợi thế
từ ưu đãi thuế của thị trường EU sẽ được khai thác triệt để hơn sau
khi FTA Việt Nam- EU được kí kết. Tuy nhiên, Hiệp định là cơ hội còn thành
công hay không còn phụ thuộc vào các doanh nghiệp (DN). Do vậy, DN cần có
sự chuẩn bị cao nhất thì mới có thể tận dụng được lợi thế từ Hiệp định này”,
ông Lê Kỳ Anh cho biết.
Riêng đối
với mặt hàng nông thủy sản, ông Nguyễn Văn Giáp, Viện Chính sách và Chiến lược
Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho
biết, tuy thị trường EU đã chiếm tới 18,6% tổng kim ngạch XK hàng hóa của Việt
Nam nhưng tỉ trọng hàng nông, thủy sản XK vào thị trường này còn rất hạn
chế (kim ngạch XK hàng nông thủy sản vào EU mới chỉ chiếm trên 10% tổng
giá trị XK nhóm hàng này), tập trung chủ yếu là thủy sản và cà phê.
Theo ông Giáp,
khi FTA Việt Nam – EU được kí kết các ngành có hàm lượng chế biến sẽ có ưu thế
khi thuế XK của Việt Nam vào EU giảm về 0%. Tuy nhiên, các mặt hàng sơ chế,
thô, và nguyên liệu lại không được hưởng lợi. Bên cạnh đó, các yêu cầu nghiêm
ngặt về tiếp cận thị trường liên quan đến an toàn và sức khỏe người tiêu dùng,
yêu cầu về môi trường, chất lượng... của EU sẽ là những thách thức không nhỏ
đối với hàng hóa Việt Nam vì dù có thuế tốt nhưng nếu không đáp ứng được các
yêu cầu này thì cũng sẽ không vào được thị trường.
Vì vậy, để
tiếp cận hiệu quả, các DN cần chủ động yêu cầu hỗ trợ về kĩ thuật, thông tin
tiêu chuẩn, thông tin thị trường, thị hiếu khách hàng... từ chính nhà phân phối
để đảm bảo sản phẩm mình làm ra phù hợp với quy định chung của EU, phù hợp với
yêu cầu của nhà NK và được người tiêu dùng chấp nhận.
Bên cạnh
đó, các DN cũng nên tính đến việc hợp tác với các nhà phân phối từ khâu sản
xuất đối với các mặt hàng chưa đủ năng lực xây dựng nhãn mác riêng...
Nguyễn Huế
Nguồn: Báo Hải quan
(Để
có nội dung đầy đủ các thông báo của các nước thành viên WTO, Quý bạn đọc có
thể truy cập vào địa chỉ Portal của Văn phòng TBT Việt Nam: http://www.tbtvn.org)
Mọi góp ý đối với các dự
thảo trên xin gửi về:
Văn
phòng TBT Cần Thơ
Số
02 Lý Thường Kiệt, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Email:
tbtcantho@tbtvn.org
Điện
thoại: 07102 246 066