SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Khảo sát tình hình sử dụng thảo dược trong nuôi cá điêu hồng (Oreochromis SP.) tại đồng bằng sông Cửu Long

[26/09/2021 17:10]

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng trọng điểm sản xuất thủy sản với diện tích nuôi thủy sản ước tính đạt 811,1 nghìn ha, sản lượng cá nuôi đạt trên 2 triệu tấn và hàng năm cung cấp trên 56% sản lượng cả nước (Tổng cục Thống kê, 2018).

Trong số các đối tượng thủy sản được nuôi ở ĐBSCL thì cá điêu hồng (Oreochromis sp.) là loài phổ biến, do thịt cá thơm ngon, ít xương và có giá trị dinh dưỡng cao nên được ưa chuộng ở thị trường trong và ngoài nước. Do đó diện tích và quy mô nuôi cá điêu hồng ngày càng mở rộng và đa dạng về loại hình như nuôi trong lồng bè, ao đất, có thể nuôi đơn, nuôi ghép hoặc nuôi kết hợp (Nirali et al., 2016). Năm 2015, có khoảng 25,4 nghìn ha diện tích nuôi cá điêu hồng tại Việt Nam với sản lượng đến gần 182 nghìn tấn (Nguyễn Hà, 2017). Ở ĐBSCL, cá điêu hồng chủ yếu được nuôi trong lồng bè với số lượng bè nuôi tăng nhanh cùng với mật độ thả nuôi rất cao dẫn đến dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng cũng như hiệu quả kinh tế của nghề nuôi cá điêu hồng. Các tác nhân gây bệnh phổ biến cho cá điêu hồng như Streptococcus spp., Flavobacterium columnare, Aeromonas hydrophila, Edwardsiella tarda, Ichthyophitirius multifillis và Tricodina sp. (Amal and Zamri-Saad, 2011). Trong đó, bệnh do vi khuẩn Streptococcus agalactiae xuất hiện với tần suất cao (86,67%) (Phạm Hồng Quân và ctv., 2013) và gây thiệt hại nghiêm trọng đến mô hình nuôi. Khi bệnh xuất hiện người nuôi thường sử dụng hóa chất, kháng sinh để điều trị, tuy nhiên việc sử dụng kháng sinh không đúng qui định, không đúng liều lượng và kéo dài thời gian sử dụng dẫn đến hiện tượng kháng kháng sinh của các loài vi khuẩn gây bệnh trên cá (Dung et al., 2009), ô nhiễm môi trường và tồn lưu kháng sinh trên sản phẩm. Theo nghiên cứu của Phạm Hồng Quân và ctv. (2013), vi khuẩn S. agalactiae kháng cao với các kháng sinh như sulfamethoxazol/trimethoxazol (98,08%), ampicillin (94,23%), axmocillin (100%) và rifampin (100%). Trước thực trạng đó, các sản phẩm có nguồn gốc từ thảo dược đang là một phương pháp phòng bệnh thay thế cho kháng sinh được quan tâm hàng đầu. Ở Thái Lan, chiết xuất xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) có hoạt tính kháng lại vi khuẩn S. agalactiae gây bệnh trên cá rô phi (Oreochromis niloticus) (Rattanachaikunsopon and Phumkhachorn, 2009). Lá của cây óc chó (Tetracarpidium conophorum) và củ hành tây (Allium cepa) có khả năng chống lại Staphylococcus aureus, Bacillus subtilis và Pseudomonas aeruginosa (Bello et al., 2013). Gần đây, Trương Thị Mỹ Hạnh và ctv. (2018) cho rằng nước ép lá hẹ (Allium tuberosum) có khả năng kháng vi khuẩn A. hydrophila và Streptococcus sp. với đường kính vòng vô khuẩn lần lượt là 27-31 mm và 30 mm. Tuy nhiên, thông tin về các loại thảo dược hiện đang được sử dụng, cũng như nhu cầu và tiềm năng sử dụng các loại thảo dược trong quá trình nuôi thủy sản nói chung và nuôi cá điêu hồng nói riêng còn hạn chế ở Việt Nam cũng như tại ĐBSCL. Chính vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tình hình và tiềm năng sử dụng thảo dược trong hộ nuôi cá điêu hồng, qua đó cung cấp những thông tin cơ bản làm cơ sở định hướng cho việc sử dụng thảo dược trong nuôi cá điêu hồng ở tương lai.

Nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm tác giả: Đoàn Thị Minh Châu (Học viên cao học ngành Nuôi trồng Thủy sản K25, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ) , Trần Thị Tuyết Hoa và Trần Thị Mỹ Duyên (Bộ môn Bệnh học Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ).

Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là: Khảo sát tình hình sử dụng chất chiết thảo dược trong nuôi cá điêu hồng; Phương pháp xử lí số liệu.

Khảo sát tình hình sử dụng chất chiết thảo dược trong nuôi cá điêu hồng: Số liệu sơ cấp được thu thập một cách ngẫu nhiên thông qua phương pháp phỏng vấn trực tiếp 60 hộ nuôi cá điêu hồng thương phẩm trong lồng bè (mỗi tỉnh 20 hộ) theo phiếu phỏng vấn đã được soạn sẵn. Nội dung phỏng vấn bao gồm nội dung: (i) đặc điểm hộ nuôi, (ii) tình hình sử dụng thảo dược và (iii) tiềm năng sử dụng thảo dược. Số liệu thứ cấp về tổng số hộ và diện tích nuôi cá điêu trong lồng bè được tổng hợp từ các kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí khoa học chuyên ngành trong nước và báo cáo của các cơ quan ban ngành thuộc tỉnh An Giang, Vĩnh Long, và Đồng Tháp (khu vực có diện tích nuôi cá điêu hồng lớn ở vùng ĐBSCL).

Phương pháp xử lí số liệu: Các số liệu điều tra được trong quá trình phỏng vấn sẽ được nhập liệu bằng phần mềm Microsoft Excel 2010 với các phép toán thống kê mô tả bao gồm giá trị trung bình, tần suất, độ lệch chuẩn, tỷ lệ phần trăm, tính điểm được sử dụng để mô tả các biến chủ yếu thu được từ quá trình phỏng vấn. Phương pháp tính điểm được thực hiện bằng cách xếp hạng ưu tiên các đáp án theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, với giá trị nhỏ nhất thể hiện hiệu quả cao nhất và giá trị lớn nhất là hiệu quả thấp nhất.

Kết luận: Khảo sát 60 hộ nuôi cá điêu hồng lồng bè cho thấy đa số các hộ đều có kinh nghiệm nuôi trên 5 năm, tỉ lệ hộ nuôi sử dụng thảo dược tại Vĩnh Long, Đồng Tháp và An Giang lần lượt là có 70%, 95% và 60%. Vĩnh Long có tỉ lệ hộ không sử dụng cao nhất (25%) và thấp nhất là Đồng Tháp(5%). Người dân biết được 16 loại thảo dược có thể ứng dụng vào nuôi cá điêu hồng, tuy nhiên thực tế chỉ có 15 loài thảo dược đã được sử dụng trong quá trình nuôi, trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là tỏi, atiso, trâm bầu, mần ri và dây vác. Công dụng của thảo dược được đánh giá nhiều nhất là giúp tăng miễn dịch và diệt kí sinh trùng. Mức độ ưu tiên sử dụng thảo dược để phòng bệnh được xếp vị trí thứ 3 sau chế phẩm sinh học và chất tăng cường đề kháng.

Đề xuất Khảo sát hoạt tính kháng khuẩn và khả năng tăng cường miễn dịch của thảo dược đối với một số vi khuẩn gây bệnh trên cá điêu hồng. Bên cạnh đó, khảo sát chi phí và lợi nhuận giữa nhóm hộ sử dụng và không sử dụng thảo dược trong quá trình nuôi cá điêu hồng cần được thực hiện trong nghiên cứu tiếp theo.

Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 56, Số 6B (2020): 227-236
Xem thêm
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Lưu ý: Cổng thông tin Sở Khoa học và Công nghệ không chịu trách nhiệm với nội dung các đường link liên kết bên ngoài