Một số đặc điểm hình thái, sinh học và sinh thái của loài hoàng liên gai (Berberis julianae C.K. Schneid) ở vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai
Nghiên cứu do nhóm tác giả Bùi Tuấn Anh, Trần Văn Tú, Ngô Thị Minh Trang - Vườn Quốc gia Hoàng Liên thực hiện.
Ảnh minh họa
Hoàng liên gai (Berberis julianae C.K. Schneid.)thuộc chi Berberis, họ Hoàng liên gai (Berberidaceae), là loài được sử dụng để làm dược liệu do có hàm lượng Berberin cao và được buôn bán ở nhiều nơi (Võ Văn Chi,2012; Đỗ Tất Lợi,2000) tuy nhiên do bị khai thác mạnh và khả năng tái sinh không cao nên. Trên thế giới, chi Berberis có khoảng 500 loài, phân bố chủ yếu ở vùng Bắc bán cầu, nhất là các nước ở vùng Trung Á, phía Nam Liên bang Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Trung Quốc đã biết 215 loài, trong đó có 197 loài đặc hữu (Flora of China Editorial Committee, 2001). Riêng về loài Berberis julianae C.K. Schneid. ở trên thế giới mới chỉ thấy ghi nhận được ở Trung Quốc, gồm các tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên(Junsheng Ying và cs., 2011); (Nguyễn Tiến Bân,1997); (Flora of China Editorial Committee, 2001). Ở Việt Nam, loài hoàng liên gai được tìm thấy phân bố chủ yếu ở núi Hàm Rồng, đèo Ô QuýHồ, xã Sa Pả và xã Ngũ Chỉ Sơn thuộc thị xã Sa Pa. Hiện nay ở Việt Nam các loài thuộc chi Berberisvẫn chưa được nghiên cứu sâu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng,...đặc biệt là về loài B.julianae. Số lượng cá thể loài hoàng liên gai ngoài tự nhiên bị suy giảm mạnh do bị khai thác quá mức. Loài này đã được đưa vào danh sách các loài thực vật nguy cấp trong Sách đỏ Việt Nam (2007) với cấp đánh giá "nguy cấp EN". Vì vậy, nghiên cứu về một số đặc điểm hình thái, sinh trưởng và tái sinh của hoàng liên gai sẽ góp phần bảo tồn và phát triển cây dược liệu này trong tương lai.
Nghiên cứu bổ sung đặc điểm sinh học và sinh thái của loài hoàng liên gai (Berberis julianaeC.K. Schneid.) tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Sa Pa, Lào Cai.
Kế thừa các tài liệu nghiên cứu về phân bố, sinh học, sinh thái và tri thức sử dụng của người dân bản địa có liên quan đến cây hoàng liên gai và các thông số khí hậu tại khu vực nghiên cứu.
Phỏng vấn 30 người dân địa phương nắm được khu vực phân bố tự nhiên của loài với độ tuổi từ 35 đến 50 kết hợp với điều tra theo 3 tuyến (đèo Ô Quý Hồ, xã Sa Pả và xã Ngũ Chỉ Sơn) để xác định các khu vực có thể có loài hoàng liên gai phân bố; thu thập thông tin từ những người thường xuyên khai thác để bán (thời gian khai thác, khối lượng khai thác/ lượt, giá bán,...) cũng như thông tin từ chính quyền địa phương (số ngoài tự nhiên, tình trạng mua bán tại địa phương) để đánh giá mức độ khai thác từ trước đến nay.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực vật học của Nguyễn Nghĩa Thìn(1977); các phương pháp nghiên cứu thực vật dân tộc học, cây thuốc của Nguyễn Bá Ngãi (1999), ... Sự sinh trưởng, phát triển và các đặc điểm sinh học(mùa hoa, mùa quả, các loài cùng quần xã, mật độ tự nhiên...)được xác định bằng việc theo dõi tăng trưởng theo chiều cao của 30 cá thể/nămphân bố tự nhiên tại xã Sa Pả với độ cao lâm phần là 1.500m, theo dõi mùa hoa -quả, số lượng quả, hạt, khả năng tái sinh tự nhiên quanh gốc của 30 cây mẫu. Nghiên cứu mật độ dựa vào ô tiêu chuẩn (OTC), tại khu vực có địa hình và thảm thực vật tiêu biểu đại diện nhất cho lâm phần, lập các OTC 20m x20 m hoặc 10m x10 m đối với cây trưởng thành và 5mx 5 m đối với cây tái sinh. Điều tra thành phần loài thảm thực vậttầng cây cao, thảm tươi có trong OTC, từ đó tìm hiểu mối liên hệ giữa hoàng liên gai với thành phần thảm thực vật.
Xác định một số yếu tố sinh thái -môi trường như độ ẩm, cường độ ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, nhiệt độ trung bình ngày, trung bình năm,...kết hợp giữa đo trực tiếp bằng nhiệt kế, thùng đo mưa,ẩm kế,...và thu thập các số liệu khí hậu tại trạm khí tượng thủy văn Sa Patrong 10 năm; Xác định các loài thực vật chủ yếu cùng sinh sống với loài hoàng liên gai theo phương pháp 6 cây. Các theo dõi được thực hiện trong năm 2018 với 4 đợt (mỗi đợt 5 ngày) đại điện cho các mùa trong năm. Điều tra 4 đợt vào tháng 2, tháng 7, tháng 10 và tháng 12số liệu thu được xử lý bằng các phương pháp thống kê sinh học.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Hoàng liên gai là loài cây bụi, có khả năng chống chịu sâu bệnh hại, chịu nhiệt tốt; xác định mật độ loài Hoàng liên gai là 365 -380 cá thể/ha, sinh trưởng tốt ngoài tự nhiên ở độ cao 1.400-1.700m với giới hạn sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm,ánh sáng,...) rất rộng.
ctngoc
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, tập 6/2022