Ba khâu đột phá trong Chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH và CN) Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiệm vụ quan trọng là góp phần cùng cả nước tạo ra lực lượng sản xuất mới, tiên tiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của phát triển kinh tế; bảo đảm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Ðể thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Chiến
lược phát triển KH và CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng cần xác định và chỉ
ra được những khâu đột phá để tập trung các nguồn lực và giải pháp chính sách
thích hợp, nhanh chóng thay đổi môi trường, thiết chế, tạo ra sự chuyển biến rõ
rệt trong hiệu quả của tổ chức, hoạt động và quản lý KH và CN, làm cho KH và CN
thật sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng.
Ðột phá đầu tiên trong Chiến lược phát triển KH và CN
Việt Nam giai đoạn 2011-2020, theo chúng tôi, chính là khâu xác định đúng những
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
ở các ngành, các cấp, các địa phương. Cần tập trung nỗ lực và đưa ra cơ chế bảo
đảm khả năng xác định trúng các nhiệm vụ, đồng thời sàng lọc, hạn chế thấp nhất
những nhiệm vụ bị xác định sai, không đúng tầm. Bên cạnh một số kết quả nổi
bật, hiệu quả hoạt động KH và CN chưa cao đang là một trong những tồn tại từ
nhiều năm nay mà xã hội và bản thân cộng đồng KH và CN nhìn chung chưa hài
lòng. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, nhưng trước hết và chủ yếu là do
khâu xác định nhiệm vụ còn nhiều hạn chế và bất cập. Bản thân lãnh đạo các cấp
cũng chưa quan tâm, chủ động đặt ra và đặt trúng các vấn đề thực tiễn trước mắt
và trong tương lai cần thiết phải tiến hành nghiên cứu. Phần lớn các doanh
nghiệp chưa quan tâm và thật sự cần đến các giải pháp KH và CN cho nên các vấn
đề đặt ra cho KH và CN cũng còn chưa thường xuyên và rõ ràng. Phần đông các nhà
KH và CN còn hạn chế về tư duy và nhãn quan liên ngành cho nên chủ yếu mới chỉ
đề xuất các vấn đề thuộc chuyên ngành hẹp của mình và ở phạm vi tầm hiểu biết của
mình, làm cho tính liên ngành của các nhiệm vụ đặt ra còn chưa rõ. Trong điều
kiện như vậy, cần tạo ra cơ chế, quy trình bảo đảm xác định đúng tầm và đúng
những vấn đề trọng tâm cho nghiên cứu để không lãng phí các nguồn lực, thời
gian và công sức của đội ngũ các nhà KH và CN.
Ðột phá thứ hai là, cần tập trung cho các giải pháp về
nhân lực và đầu tư tài chính cho KH và CN. Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm
thực thi các nhiệm vụ KH và CN. Về nhân lực, cần tập trung cho một số loại nhân
lực nhất định. Ðó là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn đề và nhiệm vụ
KH và CN, làm các tổng công trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực
hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH và CN lớn mang tầm vóc quốc gia, các nhóm nghiên
cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH và CN và đặc biệt cần nâng cấp
ngay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH và CN. Ðào tạo là giải pháp về lâu
dài, nhưng trước mắt có thể dùng các chính sách đặc biệt để thu hút và sử dụng
kịp thời lực lượng KH và CN hiện có ở cả trong và ngoài nước. Các chính sách
này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít tốn kém tiền bạc và thời gian hơn là
đổi mới công tác đào tạo nhân lực mà thông thường chỉ phát huy tác dụng trong
tương lai xa (ít nhất 10 đến 15 năm sau). Chính sách đầu tư và cơ chế tài chính
cho hoạt động KH và CN mặc dù đã được đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn còn là
khâu yếu trong hệ thống bảo đảm nguồn lực và môi trường thuận lợi cho hoạt động
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Kinh phí đầu tư cho các hoạt động
KH và CN cần được quản lý thống nhất, phân bổ theo cơ cấu hợp lý giữa các nhiệm
vụ bảo đảm hạ tầng (đầu tư phát triển), nghiên cứu và phát triển (theo các kênh
chương trình, đề tài trọng điểm cấp nhà nước và hệ thống các quỹ), và các khoản
chi thường xuyên. Trong đó, ngoài việc bảo đảm đủ kinh phí hỗ trợ đổi mới công
nghệ cho khu vực doanh nghiệp cũng cần đầu tư tới ngưỡng cho các nghiên cứu cơ
bản định hướng ứng dụng, tạo dự trữ cho các ứng dụng vào sản xuất và đời sống
trong tương lai. Khắc phục những bất cập trong chế độ chi tiêu và thủ tục thanh
quyết toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH và CN, tạo cơ chế minh bạch về
thu nhập để các nhà khoa học có thể đủ sống và làm nghiên cứu một cách trung
thực, hiệu quả.
Ðột phá thứ ba là, tập trung xây dựng và tạo cơ chế để
phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH và CN, bên cạnh cơ chế chuyển đổi các
tổ chức KH và CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các doanh
nghiệp KH và CN sẽ là nơi gắn kết hoạt động nghiên cứu và phát triển với hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Việc hình thành các doanh nghiệp KH và CN sẽ tạo ra
một "kênh" liên kết mới cho các hoạt động KH và CN và hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Nói cách khác, các doanh nghiệp KH và CN thành lập mới sẽ vừa
là loại hình tổ chức KH và CN mới (mang bản chất và hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp) lại vừa là loại hình doanh nghiệp mới (sản xuất, kinh doanh dựa trên
tri thức và công nghệ mới). Thực chất, các doanh nghiệp KH và CN sẽ trở thành
một lực lượng sản xuất mới đi tiên phong trong sản xuất các sản phẩm và dịch vụ
mới, tạo ra các ngành sản xuất mới dựa trên tri thức và công nghệ mới, có khả
năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cao, lợi nhuận cao, từ đó đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng, tạo ra nhiều việc làm và phát triển bền vững nền kinh tế.
Ðược nuôi sống và phát triển trên nền tảng của ứng dụng tri thức KH và CN, các
doanh nghiệp KH và CN sẽ là một trong những nơi đặt ra nhu cầu cụ thể, thiết
thực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đóng vai trò là trung tâm liên kết
trong hệ thống đổi mới quốc gia, hỗ trợ cho các tổ chức KH và CN công lập nhanh
chóng chuyển đổi và chuyển đổi thuận lợi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Thông qua hiệu quả hoạt động và đóng góp của các doanh nghiệp KH và CN
này sẽ chứng minh thuyết phục nhất cho vai trò nền tảng, động lực của tri thức
KH và CN đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng. Cơ
chế, chính sách đầu tư phát triển KH và CN trong giai đoạn 2011-2020 do vậy sẽ
cần tập trung cho mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH
và CN, coi đây là khâu đột phá quan trọng trong Chiến lược phát triển KH và CN
Việt Nam giai đoạn 2011-2020.