Phòng thí nghiệm trọng điểm: Nơi “khai sinh” công nghệ mới
Theo Quyết định số 850/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, phòng thí nghiệm trọng điểm (PTNTĐ) ra đời nhằm tăng cường cơ bản về cơ sở vật chất kỹ thuật cho khoa học - công nghệ. Thực tế, sau hơn 10 năm hoạt động, nhiều sản phẩm khoa học - công nghệ của PTNTĐ đã được ứng dụng trong thực tiễn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.…
Kết quả
đáng khích lệ
Đến nay, đã có 17 PTNTĐ được xây dựng và đi vào hoạt
động. Nhiều PTNTĐ hoạt động có hiệu quả như: PTNTĐ Vật liệu và linh kiện điện
tử (Viện Khoa học Vật liệu), đã hình thành ba nhóm nghiên cứu và công bố được 6
công trình trên các tạp chí khoa học quốc tế. Kết quả này rất đáng khích lệ,
bởi trong nghiên cứu thực nghiệm ở lĩnh vực vật liệu vài chục năm qua, Việt Nam
chỉ có dưới 10 công trình được triển khai, do thiếu thiết bị nghiên cứu đạt chuẩn.
PTNTĐ công nghệ hàn và xử lý bề mặt (Viện Nghiên cứu Cơ
khí - Bộ Công Thương) được Nhà nước đầu tư trên 46 tỷ đồng đã triển khai hàng
chục đề tài, dự án cấp Nhà nước và cấp bộ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh thuộc các ngành dầu khí, giao thông, xi măng...
Có thể kể một số đề tài tiêu biểu như "Nghiên cứu
công nghệ hàn tự động trong không gian nhiều chiều có điều khiển theo chương
trình số, phục vụ hàn vỏ tàu và thiết bị hóa dầu"; "Nghiên cứu thiết
kế chế tạo hệ thống thiết bị hàn tự động nối ống có đường kính lớn ở trạng thái
không quay"…
PTNTĐ công nghệ gien (Viện Công nghệ sinh học) ứng dụng
hệ gien học, đồng thời tiếp cận việc lập ngân hàng gien, bản đồ gien người Việt
Nam; nghiên cứu ở mức độ phân tử về bệnh di truyền; đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong nghiên cứu về công nghệ gien.
PTNTĐ vật liệu polymer và composite (Đại học Bách khoa
TP. Hồ Chí Minh) vừa xây dựng, triển khai ngay hoạt động ngay khi máy móc thiết
bị được đưa về. Sau nghiên cứu, đã xuất hiện nhiều công trình điển hình, có giá
trị thực tiễn như: chế tạo các phai cống thủy lợi bằng vật liệu composite cho
vùng đồng bằng Sông Cửu Long; nghiên cứu chế tạo và ứng dụng vật liệu polymer -
composite làm việc ở nhiệt độ cao; ứng dụng vật liệu polymer và composite để
thay thế lâu dài, bền vững cho các chất liệu đang sử dụng tại doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, các PTNTĐ đã góp phần đào tạo được 56 tiến
sĩ và 58 thạc sĩ, hoàn thành 640 bài báo, công trình được đăng trên các tạp
chí, trong đó có 30 công trình đăng tạp chí nước ngoài, 22 công trình có kết
quả đăng ký để được cấp bằng sáng chế, giải pháp hữu ích…
Nâng cao
tính tự chủ
Mặc dù có kết quả khá khả quan như trên nhưng theo đánh
giá của Bộ Khoa học - Công nghệ, trong quá trình vận hành, khai thác, PTNTĐ đã
bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Đó là việc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn hoạt động chậm và thiếu, nên không ít đơn vị chủ quản lúng túng trong
việc đề ra quy chế làm việc của PTNTĐ.
Điều này dẫn đến việc PTNTĐ gặp khó khăn khi xin giấy
phép hoạt động khoa học. Trang thiết bị trong các PTNTĐ là các máy móc hiện
đại, đắt tiền, qua một thời gian khai thác, sử dụng (nhất là ở một số ít PTNTĐ
đạt công suất khai thác khá cao) cần được duy tu, bảo dưỡng. Trong khi đó,
nguồn kinh phí dành cho bảo dưỡng, sửa chữa và thay thế hằng năm còn ở mức
thấp. Một số đơn vị đến nay chưa hoàn thành do vướng mắc ở khâu giải ngân hoặc
đầu tư thiếu đồng bộ.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của PTNTĐ, Nhà nước cần
tiếp tục đầu tư kinh phí cho duy tu, bảo dưỡng thiết bị. Hội đồng của PTNTĐ
phải thực hiện đúng vai trò định hướng hoạt động và bảo đảm các sản phẩm nghiên
cứu đáp ứng yêu cầu.
Mặt khác, bản thân PTNTĐ phải nâng cao tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, các tổ chức này cần
tự tìm ra những nguồn kinh phí riêng thông qua hoạt động dịch vụ và là cơ sở để
nhà khoa học trong nước, nước ngoài đến làm việc. Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật cũng cần sửa đổi, đảm bảo cho các PTNTĐ hoạt động theo đúng định
hướng, mục tiêu ban đầu.