Sự đa dạng sử dụng đất trên bờ bao hệ thống luân canh tôm – lúa vùng nước lợ: nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Sóc Trăng
Nghiên cứu do các tác giả: Võ Văn Hà và Vũ Anh Pháp - Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện.
Ảnh: sưu tầm.
Sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên trong nông hộ được xem là một trong những giải pháp để nâng cao thu nhập và ổn định đời sống sinh kế của người dân tại các vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung và người dân ở các vùng ven biển sử dụng nước mưa và nước nhiễm mặn nói riêng. Trong đó, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai và nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp (SXNN) không những làm tăng lợi nhuận cho nông dân, mà còn là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở các địa phương đang thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới (NTM) của Chính phủ hiện nay (UBND huyện Mỹ Xuyên, 2015).
Thực tế, người dân sống ở vùng sử dụng nước mưa và vùng nước nhiễm mặn ĐBSCL đã có những kinh nghiệm trong việc thực hiện các mô hình SXNN, bố trí lịch mùa vụ sản xuất, chọn lựa các giống cây trồng và vật nuôi có tính thích nghi cao với các điều kiện tự nhiên. Trong đó, có hệ thống luân canh tôm-lúa ở vùng nước nhiễm mặn hay nước lợ được đánh giá có tính đa dạng cao về sự kết hợp các loại cây trồng và vật nuôi nên góp phần định hướng phát triển SXNN bền vững trong tương lai (Huỳnh Minh Hoàng và ctv., 2004; Võ Đăng Ký, 2009). Tuy nhiên, thu nhập của nông hộ thực hiện hệ thống tôm-lúa không ổn định do rủi ro trong nuôi tôm luôn ở mức cao, sản xuất các loại cây trồng khác còn nhiều hạn chế và chưa đa dạng được các nguồn thu nhập (Võ Văn Hà và ctv., 2016).
Theo báo cáo hàng năm của Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Mỹ Xuyên-Sóc Trăng (2016), có khoảng 35-51% diện tích tôm nuôi trong huyện bị thiệt hại do dịch bệnh, thời tiết thay đổi bất thường và ô nhiễm từ các hoạt động SXNN. Riêng việc dẫn nước mặn vào ruộng để nuôi tôm trong mùa khô làm cho lớp đất mặt bị mặn hoá nhiều hơn nên ảnh hưởng đến việc luân canh các loại cây trồng khác ở vùng đất nhiễm mặn (Lê Quang Trí và ctv., 2009). Ở những vùng SXNN phụ thuộc vào lượng nước mưa thì bị tác động của nắng hạn (tháng 2 đến tháng 4 hàng năm) gây khó khăn về khan hiếm nguồn nước tưới nên làm thiệt hại nhiều diện tích canh tác rau màu, trong khi các hệ thống ao/mương trữ nước mưa chưa phát huy được hiệu quả (Nguyễn Ngọc Sơn và ctv., 2014). Như vậy, sự thay đổi bất thường của thời tiết, sự xâm nhập nước mặn, ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động SXNN và tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi rất khó kiểm soát đã ảnh hưởng đến SXNN của nông dân vùng ven biển.
Những hạn chế của hoạt động SXNN ở vùng bị ảnh hưởng xâm nhập mặn ven biển là sử dụng tài nguyên đất và nước chưa thật sự hiệu quả, trong khi khả năng đa dạng các hoạt động sản xuất các loại rau màu, cây lương thực hay trồng cỏ phục vụ chăn nuôi có nhiều tiềm năng để phát triển. Sự đa dạng các hoạt động sản xuất và nguồn thu nhập trong nông hộ góp phần giảm thiểu các rủi ro cho hệ thống canh tác hiện tại, đồng thời tạo thêm các dịch vụ hỗ trợ khác cho sự chuyển dịch các mô hình canh tác mới (Van Vo et al., 2013). Do đó, nên đa dạng sản xuất với các hệ thống canh tác thích nghi với mặn và khô hạn (như: nuôi thủy sản luân canh hoặc kết hợp với cây trồng lúa hay rau màu) và sử dụng nước tiết kiệm trong nông nghiệp thì cần được quan tâm (Đặng Kiều Nhân, 2016). Đa dạng hoá các loại cây trồng khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong năm sẽ giúp nông dân giảm bớt các rủi ro thông qua cách phân tán các rủi ro để ổn định thu nhập (Ngân hàng Thế giới, 2005). Bên cạnh đó, việc áp dụng kỹ thuật tăng hiệu quả của ao/mương trong việc trữ nước mưa hay sử dụng lắng lọc nước nhằm ứng phó với các rủi ro trong SXNN thì rất khả thi. Nghiên cứu này nhằm tận dụng nước mưa và ẩm độ đất để trồng các loại cây hoa màu, cây lương thực hoặc trồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò trên diện tích bờ bao để đa dạng các nguồn thu nhập nông hộ và là giải pháp thích ứng với các thảm hoạ thiên tai hiện nay. Một trong những giải pháp được đề xuất là đánh giá sự đa dạng sử dụng đất trên bờ bao trong hệ thống tôm – lúa, với các mục tiêu cụ thể là: (1) Trồng thử nghiệm cây cao lương, trồng cỏ voi để nuôi bò và kết hợp đánh giá đặc tính thích nghi của đất trên bờ bao; (2) Phân tích hiệu quả tài chính các mô hình trồng màu kết hợp; và (3) Đánh giá tính khả thi các giải pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường các mô hình trồng màu. Kết quả nghiên cứu là nguồn thông tin quan trọng để các nhà quản lý nông nghiệp và chính sách có những biện pháp hỗ trợ phát triển nông nghiệp cho vùng.
Nghiên cứu đa dạng sử dụng tài nguyên đất bờ bao hệ thống luân canh tômlúa tại vùng nước lợ nhằm giúp nông dân đa dạng các nguồn thu nhập, hạn chế rủi ro cho sản xuất nông nghiệp và thích ứng với sự thay đổi bất thường của thời tiết. Nghiên cứu đã bố trí thí nghiệm trồng cây cao lương (sorghum bicolor) và trồng cỏ voi (Pennisetum purpureum) kết hợp chăn nuôi bò trong nông hộ. Đồng thời, nghiên cứu cũng ghi chép sổ nhật ký 14 nông hộ tham gia nghiên cứu và phỏng vấn trực tiếp 61 nông dân trồng hoa màu, trồng cỏ kết hợp chăn nuôi bò bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Kết quả cây cao lương thích nghi tốt và cho năng suất cao ở vùng này. Năng suất cỏ voi cao là nguồn cung cấp thức ăn ổn định cho chăn nuôi bò. Hoạt động trồng hoa màu đều mang lại hiệu quả nên nâng cao sự đa dạng thu nhập hộ và tăng khả năng sử dụng đất, thay vì không canh tác như trước đây của nông dân. Nhóm cây trồng họ bầu bí, dưa, khổ qua và ớt trồng đơn hay trồng kết hợp với cây cao lương đều cho lợi nhuận cao so với các loại cây khác. Đa dạng sử dụng đất sẽ giúp nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định sinh kế và thích ứng tốt với biến đổi khí hậu tại vùng nước lợ.
Tạp Chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ-Tập 53, Phần B(2017)